Trong kỷ nguyên công nghệ số và hội nhập, các sản phẩm văn hóa số của Việt Nam từ âm nhạc, phim ảnh, trò chơi điện tử đến xuất bản điện tử đang có cơ hội vươn ra thị trường quốc tế, mang lại lợi ích rõ rệt cho phát triển công nghiệp văn hóa. Tuy nhiên, thời gian qua, vi phạm bản quyền (quyền tác giả và quyền liên quan) trên môi trường số ở nước ta có xu hướng ngày càng gia tăng cả về số lượng và tính chất, khiến công tác bảo vệ bản quyền số trong bối cảnh không biên giới trên môi trường mạng như hiện nay vẫn đối mặt với nhiều thách thức lớn.

Theo ông Hoàng Đình Chung, Giám đốc Trung tâm Bản quyền số, Hội Truyền thống số Việt Nam, việc Việt Nam nằm trong danh sách những quốc gia có tỉ lệ vi phạm bản quyền hàng đầu khu vực Châu Á-Thái Bình Dương là thực trạng đáng buồn, phản ánh tình trạng xâm phạm bản quyền trên môi trường số ở nước ta đang diễn ra rất phức tạp và hiện tại chưa có các phương thức hữu hiệu để cải thiện vấn đề này.

"Việc xâm phạm bản quyền ảnh hưởng trực tiếp đến chủ sở hữu bản quyền, nhưng ảnh hưởng lâu dài là tác động đến cả một ngành, một lĩnh vực trong công nghiệp văn hóa. Mà công nghiệp văn hóa đóng góp tỉ trọng GDP lớn, nếu không cải thiện được thì sẽ dẫn đến hệ lụy lâu dài. Đặc biệt khi bản quyền là gốc của các ngành sáng tạo nội dung số thì những ngành đi sau sẽ càng khó khăn hơn trong việc xử lý".

Qua quá trình thực hiện các công tác về bảo vệ và khai thác bản quyền, đặc biệt trên môi trường số, ông Hoàng Đình Chung nhận thấy có 8 hình thức vi phạm cơ bản: Chiếm đoạt quyền tác giả; mạo danh tác giả; phân phối tác phẩm giả mạo; phân phối các tác phẩm mà không có sự đồng ý của tác giả; sửa chữa, cắt xén, xuyên tạc - đây là hành vi cực kỳ nguy hiểm trong xử lý các vấn đề bảo vệ bản quyền tác giả; sao chép không có sự đồng ý hay làm các tác phẩm phái sinh mà không có sự đồng ý của tác giả, dẫn đến sai lệch bản gốc của tác giả; sử dụng tác phẩm mà không có sự thỏa thuận với tác giả để chi trả thù lao phù hợp với tác giả nhằm tái tạo năng lực sáng tạo.

Bên cạnh đó, Việt Nam hội nhập quốc tế muộn hơn, việc thực thi quyền tác giả tương đối muộn và lâu nay người dân vốn quen với việc thụ hưởng các sản phẩm sáng tạo nội dung số miễn phí thông qua các phương tiện thông tin đại chúng. Khi sử dụng miễn phí thì chưa đề cập đến quyền tác giả, quyền sở hữu, dẫn đến việc ý thức của người thụ hưởng và ý thức của chủ sở hữu, người khai thác các nội dung đó cũng chưa đầy đủ. Nhưng đáng mừng là trong thời gian ngắn trở lại đây, khi Việt Nam tham gia tương đối đầy đủ các công ước quốc tế về sở hữu trí tuệ (trong đó có bản quyền) thì ý thức, đặc biệt là từ chủ sở hữu nội dung, người sở hữu bản quyền đã cao lên.

Theo ông Hoàng Đình Chung, hệ lụy của vi phạm bản quyền không chỉ khiến nhà nước thất thu thuế, doanh nghiệp chân chính bị cạnh tranh bất bình đẳng mà lòng tin và tinh thần cống hiến của những nhà sáng tạo nội dung cũng bị lung lay khi sản phẩm sáng tạo của mình được đầu tư nghiêm túc lại thua thiệt bởi nạn đánh cắp bản quyền.

Trong kỷ nguyên số, mọi nội dung từ âm nhạc, phim ảnh đến sự kiện thể thao đều cần đi qua "dịch vụ trung gian" là các mạng xã hội (Facebook, YouTube), hosting, nhà mạng... Nhưng chính những cầu nối này lại trở thành “kẽ hở" trong việc bảo vệ bản quyền trên không gian mạng.

"Không phải trên môi trường số mà ngay môi trường vật lý cũng xảy ra tình trạng vi phạm bản quyền. Khi công nghệ liên tục thay đổi, sự phát triển của công nghệ AI, công nghệ sao chép thì việc xâm phạm bản quyền diễn ra rất dễ dàng. Trong khi đó, các vấn đề về thực thi, xử lý vi phạm lại chưa có vụ điển hình nào được đưa ra xử lý, để tạo ra tính răn đe đối với chủ thể xâm phạm bản quyền. Các đơn vị sở hữu nội dung không đủ nguồn lực đầu tư cho các cách thức để bảo vệ sản phẩm của mình. Tôi thấy trên môi trường số gặp 2 vấn đề: 2 dễ và 2 khó. Dễ là cho những chủ thể xâm phạm dễ lấy cắp, dễ khai thác kinh doanh; Khó cho nhà quản lý và khó cho chủ sở hữu trong việc bảo vệ bản quyền", ông Hoàng Đình Chung nêu thực tế.

Bảo vệ bản quyền số không chỉ là bảo vệ quyền lợi của người sáng tạo, mà còn là bảo vệ tương lai của công nghiệp văn hóa Việt Nam. Cuộc chiến chống vi phạm bản quyền số đòi hỏi sự phối hợp chặt chẽ của toàn xã hội. Một nền kinh tế sáng tạo không thể phát triển dựa trên việc chiếm đoạt công sức, trí tuệ của người khác. Để làm tốt công tác bảo vệ bản quyền, cần thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp từ giáo dục, tuyên truyền pháp lý, hỗ trợ sáng tạo, hợp tác quốc tế… Những nỗ lực này sẽ góp phần tạo ra môi trường thuận lợi cho sự phát triển bền vững của ngành công nghiệp văn hóa, nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế.