Hà Nội là vùng đất văn hiến, có mật độ dày đặc di tích văn hóa, lịch sử. Trong đó có rất nhiều di tích thời Lý - Trần. Một trong những di tích đó là Đền Đồng Cổ nằm trên phố Thụy Khuê thuộc phường Tây Hồ, được công nhận là di tích Lịch sử - Văn hóa cấp quốc gia năm 1992. Nơi đây cũng chính là khởi nguồn của Hội thề Trung hiếu, được công nhận là di sản văn hóa phi vật thể quốc gia năm 2023.
Theo sách “Hà Nội Danh thắng và Di tích” tập 1 và theo các bi ký còn để lại, đền Đồng Cổ tọa lạc trên khuôn viên làng Đông Xã xưa, hậu tựa Hoàng thành Thăng Long, được coi là một trong “bát cảnh Thăng Long”, tức là một trong 8 cảnh đẹp của thành Thăng Long xưa.
Thần chủ của đền là Đại Vương Sơn Thần Đồng Cổ. Theo lời kể của cộng đồng địa phương và “Thần tích làng Đông Xã” được trích từ “Thần phả Tản Viên Sơn Thánh” (Đền Và - Sơn Tây) có ghi chép về Thần núi Đồng Cổ như sau: Đại vương Sơn Thần Đồng Cổ chính là ngài Vũ Công, dòng dõi nhà vua. Thời vua Hùng Duệ Vương thứ 18 được Đức Tản Viên phân công lĩnh binh sĩ đi dẹp quân Thục nổi loạn tại vùng Thanh Hóa, Nghệ An. Hoàn thành nhiệm vụ, Ngài hiển Thánh trở thành Thần tại núi Đồng Cổ, làng Đan Nê (nay làng Đan Nê, xã Quý Lộc, tỉnh Thanh Hóa).
Sử sách chép rằng: Dưới thời Lý Thái Tổ, vào tháng 12 năm Canh Thân (từ 17/12/1020 đến 15/1/1021), Khai Thiên Vương Phật Mã (tức Lý Thái Tông) vâng mệnh vua cha Lý Thái Tổ đem binh dẹp giặc Chiêm Thành phương Nam, khi đi qua đền Đồng Cổ Thanh Hóa được thần báo mộng. Thắng trận trở về, Phật Mã cho sửa lễ tạ ơn thần ở đền Đồng Cổ, rồi rước thần về lập đền thờ ở trong thành Thăng Long. Sách “Đại Nam nhất thống chí” xác định vị trí của ngôi đền Đồng Cổ đầu tiên do Lý Phật Mã dựng vào thời Lý Thái Tổ nằm ở phía Bắc thành Thăng Long. Đến năm 1028, sau khi dẹp xong loạn Tam vương, lên ngôi Hoàng đế, Lý Thái Tông phong tước Vương cho thần núi Đồng Cổ và xuống chiếu giao cho Hữu ty dựng miếu thờ bên hữu thành Đại La sau chùa Thánh Thọ, lấy ngày 25/3 Âm lịch, đắp đàn ở trong miếu, cắm cờ xí, chỉnh đốn đội ngũ, treo gươm giáo ở trước thần vị, đọc lời thề rằng: “Làm con bất hiếu, làm tôi bất trung, xin thần minh giết chết”. Các quan từ cửa Đông đi vào, đến trước thần vị cùng uống máu ăn thề, hàng năm lấy làm lệ thường. Sau vì tháng 3 có ngày quốc kỵ, chuyển sang mùng 4 tháng 4 (Âm lịch).
Lễ hội đền Đồng Cổ là lễ hội của triều đình, hướng về nguồn cội. Đây là hội thề quốc gia có ý nghĩa đặc biệt, nên được Hoàng đế và triều đình dành nhiều sự quan tâm. Hầu hết tôn thất, quan lại trong triều và người dân ở trong và ngoài Kinh thành Thăng Long đều về dự Hội thề với tinh thần tận trung, tận hiếu, cầu mong cho quốc thái dân an. Sang thời Trần, Hội thề còn đề cao sự trong sạch của người làm quan.
Hội thề đền Đồng Cổ là một hội thề non nước, một đại lễ hội của Kinh thành Thăng Long. Hội thề Trung hiếu được duy trì qua 8 đời nhà Lý và trải dài trong 216 năm, chuyển tiếp sang 14 đời vua nhà Trần với 175 năm. Dù ở giai đoạn nào của đất nước, lễ hội đền Đồng Cổ là biểu tượng thiêng liêng của người Việt Nam, đồng thời là biểu tượng quyền uy của nhà nước được xác lập đầu tiên tại Việt Nam - nhà nước Hùng Vương.
Nét đặc sắc của Hội thề đền Đồng Cổ chính là sự hòa hợp, kết quyện giữa nghi thức cung đình và dân gian. Đây là một lễ hội đặc biệt, bởi theo các nhà khoa học, toàn miền Bắc hiện chỉ có hai Hội thề: Lễ hội Minh thệ ở Hải Phòng và Hội thề Trung hiếu đền Ðồng Cổ ở Hà Nội.
Hội thề Trung Hiếu được gìn giữ suốt hơn hai thế kỷ triều đại nhà Lý và còn được các triều đại nhà Trần, nhà hậu Lê duy trì theo nghi lễ quốc gia. Sau này, đến triều Nguyễn, kinh đô chuyển vào Phú Xuân (Huế), Hội thề Trung hiếu không còn được tổ chức theo nghi lễ quốc gia nhưng tại Đông Xã, Hội thề Trung Hiếu vẫn được dân gian truyền tụng với lời tuyên thệ: “Làm con bất hiếu / Làm tôi bất trung / Thần minh tru diệt.”
Cộng đồng cư dân làng Đông Xã xưa (phường Tây Hồ ngày nay) luôn cảm thấy vinh hạnh được bảo vệ, trông nom ngôi đền Đồng Cổ linh thiêng và nhận thấy lời thề Trung Hiếu ấy vẫn còn nguyên giá trị với mọi thời đại.
Hội thề Trung Hiếu đền Đổng Cổ là dịp để cộng đồng bày tỏ sự biết ơn, tấm lòng tri ân đến thần Đồng Cổ đã hộ nước, an dân. Quá trình thực hành di sản đã hình thành nên tập quán xã hội của cộng đồng địa phương về việc giữ lời thề. Lời thề Trung Hiếu được tổ chức thành một nghi lễ trong lễ hội, là nguồn động viên, động lực nhắc nhở mỗi người trong việc thực hiện và chịu trách nhiệm với lời thề của mình trước thần Đồng Cổ, góp phần vào việc giáo dục nhân cách, đạo đức của con người, là điểm tựa văn hóa của cộng đồng nhân dân địa phương. Năm 2023, Lễ hội được công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia.
Đền Đồng Cổ ngày nay là di tích duy nhất còn lại trong “bát cảnh Thăng Long” xưa. Trải qua thăng trầm, kiến trúc xưa không còn được nguyên vẹn mà mang phong cách thời Nguyễn, với bố cục hình chữ “Đinh”, bao gồm các khu vực chính: Tam Quan, Sân đền, Tiền tế, Trung tế và Hậu cung. Cảnh quan xung quanh đền hài hòa với thiên nhiên, tạo nên không gian thanh tịnh và trang nghiêm.
Đền Đồng Cổ là di tích lịch sử văn hóa quan trọng, là biểu tượng tinh thần yêu nước và lòng trung thành của người Việt. Dù kiến trúc cũ không còn nguyên vẹn, nhưng giá trị văn hóa và lịch sử của đền vẫn được lưu giữ. Đền Đồng Cổ có ý nghĩa to lớn trong đời sống tâm linh và văn hóa của người dân. Không chỉ là nơi thờ cúng vị thần linh thiêng, đền còn gắn liền với truyền thống yêu nước, trung hiếu và tinh thần đoàn kết dân tộc.
Dù gần 1.000 năm đã trôi qua, cùng với bao biến thiên, bản sắc văn hóa trong lễ hội đền Đồng Cổ đã và đang được cộng đồng duy trì, thực hành, lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác, có tính lan tỏa mạnh mẽ trong đời sống văn hóa tâm linh của cộng đồng nơi đây.
