Trong cuốn “Đăng khoa lục” và “Đại Việt sử ký toàn thư” có ghi rằng: Danh nhân Ngô Ngọc có tên hiệu là Tiềm Xuyên, sinh năm Nhâm Thân (1452). Ông đỗ đệ nhị giáp Tiễn sĩ xuất thân, tức Hoàng Giáp vào khoa thi năm Đinh Mùi, niên hiệu Hồng Đức thứ 18, đời vua Lê Thánh Tông.
Còn theo gia phả họ Ngô thì Ngô Ngọc quê ở làng Vọng Nguyệt, hay còn có tên là làng Ngột Nhì, thuộc tổng Nội Trà, huyện Yên Phong, phủ Từ Sơn, trấn Kinh Bắc, nay là làng Vọng Nguyệt, xã Tam Giang, huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh. Cha của Hoàng Giáp Ngô Ngọc là Ngô Nguyên vốn quê gốc ở xã Tam Sơn, huyện Đông Ngàn, nay là phường Tam Sơn, thị xã Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh. Vào đời vua Lê Thái Tông (1433-1442), cụ Ngô Nguyên di cư về làng Vọng Nguyệt, được họ Chu giúp đỡ và gả con gái là Chu Thị Bột. Cụ Ngô Nguyên và Chu Thị Bột sinh hạ được 2 người con trai là Ngô Ngọc và Ngô Định.

Tương truyền, ngay từ nhỏ, Ngô Ngọc đã có tư chất thông minh, nổi tiếng hay chữ trong vùng. Hơn nữa, lại được ông ngoại là một vị quan thanh liêm kèm cặp dạy dỗ nên Ngô Ngọc rất chăm chỉ học hành.
Theo sách “Đại Việt sử ký toàn thư” cũng như trong gia phả cho biết, Ngô Ngọc đã tham gia kỳ thi năm Đinh Mùi, niện hiệu Hồng Đức thứ 18 (tức năm 1487) và đỗ Đệ nhị giáp Tiến sĩ Đồng xuất thân. Điều này cũng được thể hiện trong bia Tiến sĩ tại Văn Miếu, Quốc Tử Giám.
TS Nguyễn Văn Tú, Phó Giám đốc Trung tâm Văn hoá Khoa học Văn Miếu Quốc Tử Giám cho biết, Hoàng giáp Ngô Ngọc đỗ Đệ nhị giáp Tiến sĩ khoa Đinh Mùi niên hiệu Hồng Đức 18, tức năm 1487. Tấm bia này được dựng là đợt bia thứ hai sau đợt dựng thứ nhất là năm 1484 cho 10 khoa thi từ 1442 đến 1484. "Tên của Hoàng giáp Ngô Ngọc đứng ở tấm bia này ghi như sau: Ngô Ngọc người huyện Yên Phong, Phủ Từ Sơn, trấn Kinh Bắc… Khoa thi… Qua chi tiết này khẳng định thêm là Hoàng giáp Ngô Ngọc cũng như những người đỗ đại khoa tại khoa thi này là những người thực sự tài năng”.
Trong sách “Lịch triều hiến chương loại chí”, nhà sử học Phan Huy Chú cũng nhận xét: "Khoa cử các đời, thịnh nhất là đời Hồng Đức. Cách lấy đỗ rộng rãi, cách chọn người công bằng, đời sau càng không thể theo kịp”. Sau khi đỗ Tiến sĩ, Ngô Ngọc được bổ các chức quan trong Lễ Bộ của triều đình đến chức Đô cấp sự trung, chức trung quan nhưng lại phải đảm nhiệm việc kiểm tra, giám sát về hình pháp quy chế của Bộ Lễ. Kiểm tra hệ thống quan lại có thanh liêm không.
Tuy chỉ giữ chức trung quan nhưng lại đảm nhiệm công việc rất khó khăn là giám sát các quan trên. Điều này cũng phần nào đó thể hiện phẩm cách của quan Đô cấp sự trung Ngô Ngọc. Bởi lẽ, Lễ khoa là cơ quan giám sát bộ Lễ nên ông cần phải nắm rõ những phép tắc và đạo lý thì mới quy định và phân biệt được phải trái mà tâu trình. Hơn nữa người đứng đầu Lễ khoa cũng cần có sự nghiêm cẩn trong công việc, nhanh nhẹn hoạt bát, giao thiệp để chỉ ra những sai sót trong bộ Lễ mà không bị khiển trách, giữ được hoà khí quan trường.
Ngô Ngọc làm quan 35 năm trong triều nhưng không mắc một sai lầm lớn nào. “Ông là người bắt đầu mở con đường khoa bảng vẻ vang cho con cháu trong họ về sau này. Ở địa phương vẫn còn truyền tụng câu ca: Đất thiêng phát phúc chẳng lâu/ Tiềm Xuyên là cụ con đầu nhất trai/ Khoa danh cao chiếm bảng trời/ Đinh Mùi Tiến sĩ khoa thời Lễ khoa”, ông Nguyễn Hữu Mạo, nguyên Trưởng ban quản lý di tích tỉnh Bắc Ninh, người đã có công trình nghiên cứu về danh nhân Ngô Ngọc chia sẻ.
Trong cuộc đời làm quan hơn 35 năm, tuy sử sách không ghi chép nhiều về công trạng của Ngô Ngọc, nhưng người dân Vọng Nguyệt thì luôn ghi nhớ công ơn của vị Tiến sĩ khai khoa này. Khi mất, Hoàng giáp Ngô Ngọc được vinh phong Đặc tiến kim tử vinh lộc đại phu. Hiện nay, tại “Đại từ đường” họ Ngô ở Vọng Nguyệt còn lưu giữ nhiều sắc phong và câu đối do các triều đại phong tặng. Trong đó có đôi câu đối: “Túc chẩn bần nhân đức thụ âm bồi nai gia viễn/ Thiên lưu phúc địa bảng hoa kế phát cửu di phương”. Ý là đây là một dòng họ vừa có truyền thống nhân từ, tương thân, tương ái, vừa có truyền thống khoa bảng với nhiều đời đỗ đại khoa. Qua đó cũng thể hiện sự ghi nhận của người đời sau đối với dòng họ Ngô nói chung và người khai khoa là Hoàng giáp Ngô Ngọc nói riêng.

Tiếp nối truyền thống khai khoa của Hoàng giáp Ngô Ngọc, về sau này, con cháu họ Ngô Vọng Nguyệt vẫn không ngừng theo nghiệp khoa cử. Ngoài 5 vị Tiến sĩ của 5 đời trong suốt 153 năm, tính đến khoa thi cuối cùng của Nho học, họ Ngô làng Vọng Nguyệt mà khởi phát từ người khai khoa là Hoàng giáp Ngô Như Ngọc đã có 58 người đỗ Cử nhân và Tú tài. Nổi bật hơn cả là Cử nhân Ngô Trung Hòa, làm quan đến chức Quốc Tử Giám Tư nghiệp, được phong tước Bảo thành Hầu dưới triều nhà Nguyễn.
Với hơn 35 năm làm quan, tuy không trải nhiều trọng chức nhưng với chức trách của một vị quan giám sát Bộ Lễ, Ngô Ngọc luôn thể hiện là một vị quan thanh liêm, chính trực. Hiện nay, Hoàng giáp Ngô Ngọc được thờ tự tại Đền thờ Họ Ngô ở làng Vọng Nguyệt, xã Tam Giang cùng các vị đại khoa trong dòng họ.
Hàng năm, cứ vào ngày 17 tháng Giêng âm lịch, tại đền thờ họ Ngô ở Vọng Nguyệt diễn ra lễ giỗ tưởng nhớ công ơn của các bậc tiền nhân. Nhớ ơn vị tổ khai khoa, con cháu Ngô tộc hiện nay vẫn luôn phát huy tinh thần hiếu học. Họ Ngô ở Vọng Nguyệt cũng luôn dẫn đầu trong công tác khuyến học, khuyến tài của địa phương.