Trên mạng xã hội, không khó để bắt gặp những câu nói, những dòng chia sẻ cảm xúc “đậm chất xu hướng”: “Deadline này căng quá, chắc phải focus hơn”, “Cặp lông mày skinship” hay “Plot twist này làm mình shock cực”...
Đó không phải là tiếng Anh thuần túy, cũng chẳng phải tiếng Việt trọn vẹn, mà là một “hỗn hợp” lai giữa hai thứ tiếng.
Hiện tượng giới trẻ sử dụng nhiều từ nước ngoài vào trong câu nói là một hiện tượng ngôn ngữ thực tế, ngôn ngữ nào cũng có, xã hội nào cũng có, thậm chí là thời nào cũng có. Trong thời hiện đại, nhu cầu giao lưu, tiếp xúc giữa các nền văn hoá ngày càng nhiều, khoa học kĩ thuật ngày càng phát triển thì hiện tượng này càng phổ biến, đặc biệt là đối với những ngôn ngữ nhỏ. Không thể phủ nhận, việc học ngoại ngữ, đặc biệt là tiếng Anh, là xu thế tất yếu trong thời đại hội nhập.
Giới trẻ sử dụng nhiều từ ngữ nước ngoài trong giao tiếp có thể do họ vốn năng động, dễ dàng tiếp cận và nhạy cảm với cái mới, khát khao đổi mới, sáng tạo, và đồng thời cũng sợ không theo kịp mốt, lạc nhịp với chúng bạn…; là đối tượng tiếp xúc nhiều với ngoại ngữ; và trong một chừng mực nào đó, vốn và kĩ năng sống cũng như ngôn ngữ còn có phần hạn chế.
Tuy nhiên, khi những từ như “like”, “idol”, “trend”, “deadline”... tràn ngập trong câu nói hàng ngày, câu hỏi đặt ra là: Đây có còn là cách giao tiếp tự nhiên, hay chỉ là một biểu hiện của sự “lệch chuẩn” ngôn ngữ?
Theo nhiều chuyên gia ngôn ngữ, xét từ phương diện cá nhân, ở mặt tích cực, trong chừng mực nào đó, cách nói "chêm tiếng Anh" có thể thể hiện được đúng ý và cá tính người nói.
Tuy nhiên việc chêm ngôn ngữ nước ngoài có thể tạo ra rào cản giao tiếp vì không phải ai cũng thông thạo ngoại ngữ.
Xét từ phương diện xã hội, khi việc sử dụng từ ngữ nước ngoài trong câu nói phù hợp và giúp việc biểu đạt tốt hơn, chính xác hơn, đa dạng hơn, và được xã hội chấp nhận, thì nó giúp cho vốn từ của ngôn ngữ thêm giàu có, ngữ pháp được tăng cường.
Ngược lại, khi việc sử dụng này được thực hiện một cách bừa bãi, vô nguyên tắc sẽ khiến cho ngôn ngữ tiếng Việt biến dạng, lai tạp, lai căng, không còn giữ được sự thuần khiết vốn có nữa.
Trước năm 1945, tiếng Việt đã từng phải đi vay mượn từ ngữ, ngữ pháp của các ngôn ngữ khác, đặc biệt là từ tiếng Hán, tiếng Anh, tiếng Pháp, tiếng Nga. Tuy nhiên, cha ông ta đã chủ ý làm việc này một cách mạnh mẽ, có chọn lọc và quyết liệt và hiệu quả. Chúng ta đã làm việc này với tinh thần dân tộc, khoa học và đại chúng. Nhờ đó, tiếng Việt hiện nay là một ngôn ngữ khỏe, một ngôn ngữ mạnh. Tiếng Việt được đánh giá là một trong 20 ngôn ngữ lớn trên thế giới.
Không nên ngộ nhận rằng cứ chêm chèn từ ngữ nước nhiều vào trong giao tiếp là thể hiện đẳng cấp, cá tính, mới mẻ... hơn người. Chúng ta không thể đẹp lên, thời thượng hơn, quốc tế hơn, ưu tú hơn người khác khi sử dụng từ ngữ nước ngoài thiếu chọn lọc, không phù hợp. Việc làm như vậy chỉ khiến chúng ta trở nên xấu xí, thiếu bản sắc, chưa kịp hoà nhập thì đã bị hoà tan. Chúng ta không bài xích việc học ngoại ngữ – đó là chìa khóa hội nhập. Nhưng hội nhập không đồng nghĩa với hòa tan.
Tiếng Việt không chỉ là phương tiện giao tiếp, mà còn là linh hồn của văn hóa dân tộc. Vị thế của một quốc gia là một tổng hoà của nhiều yếu tố. Ngôn ngữ là một trong những yếu tố đó. Vay mượn sao chép của người khác, thậm chí có thể đánh mất chính mình. Vì vậy, giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt, làm cho tiếng Việt giàu lên, khoẻ lên là trách nhiệm chung của mỗi người Việt, trong đó có giới trẻ.
Trước khi vay mượn tiếng nước ngoài, hãy cố gắng biểu đạt bằng tiếng Việt, cố gắng dịch sang tiếng Việt. Chỉ làm như vậy thì tiếng Việt mới khỏe lên, đẹp lên, mới giàu có và trong sáng thực sự. Một khi ngôn ngữ bị lai tạp quá mức, chúng ta có thể mất nhiều hơn những gì tưởng chừng chỉ vài từ "chêm vào" nhỏ bé./.