Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) là trung tâm sản xuất nông nghiệp lớn nhất Việt Nam, đóng vai trò đặc biệt quan trọng đảm bảo an ninh lương thực của Việt Nam và thế giới. Hàng năm sản xuất 50% sản lượng lúa, 65% sản lượng nuôi trồng thủy sản và 70% các loại trái cây; 95% lượng gạo xuất khẩu và 60% sản lượng cá xuất khẩu của cả nước. Tuy nhiên, cũng chính vì vai trò quan trọng đó mà vùng có quá nhiều quy hoạch với những mục tiêu phát triển tham vọng, không gắn với nguồn lực và đặc thù của vùng. Hơn 2.500 quy hoạch, trong đó có 22 quy hoạch cấp vùng dẫn đến chồng chéo, mâu thuẫn, thiếu liên kết và không đồng bộ; nhiều quy hoạch còn mang tính chủ quan, duy ý chí, không dựa trên cơ sở khoa học...

Tại cuộc tọa đàm "Quản lý tích hợp-thách thức đối với phát triển bền vững Đồng bằng sông Cửu Long" diễn ra mới đây tại Hà Nội, nhiều chuyên gia cho rằng, yêu cầu đặt ra cho quy hoạch vùng đồng bằng sông Cửu Long trong bối cảnh biến đổi khí hậu là phải quy hoạch vùng tích hợp; xây dựng một tầm nhìn chung và chương trình hành động chung để quản lý tích hợp cho vùng; hướng đến phát triển kinh tế - xã hội - môi trường bền vững, phù hợp với đặc thù của vùng và thích ứng với biến đổi khí hậu; có cơ chế liên kết và quản lý phát triển vùng hiệu quả...

Theo ông Trương Minh Hoàng, Phó chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật của Quốc hội, việc quy hoạch đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) cần phải bảo đảm tính thống nhất và đồng bộ giữa quy hoạch phát triển kinh tế bảo đảm với quản lý ngành và lãnh thổ, đặc biệt là đối với khu vực ĐBSCL cần phải được tính toán và bám sát.

ĐBSCL thuộc khu vực với vị trí địa lý rất đặc thù. Đây là khu vực vừa có biên giới biển, vừa có biên giới đất liền. Chính vì vậy, trong quá trình thực hiện quy hoạch bảo đảm phát triển kinh tế cần tính toán đến các yếu tố bảo đảm quốc phòng an ninh. Song song với đó cần bảo đảm sự kế thừa liên tục và ổn định thứ bậc trong quy hoạch. Theo đó, quy hoạch phải phù hợp với quy hoạch cấp quốc gia, trên cơ sở quy hoạch cấp quốc gia thì thực hiện quy hoạch vùng, trên cơ sở yếu tố quy hoạch vùng tính đến quy hoạch địa phương của mình để đáp ứng yêu cầu quy hoạch chung.

Còn theo TS. Đặng Kim Sơn, Giám đốc Viện Nghiên cứu thị trường và thể chế nông nghiệp, thời gian qua chúng ta có một loạt các mâu thuẫn và không đồng bộ trong quy hoạch, trước hết về tình hình phát triển kinh tế của đồng bằng sông Cửu Long nói riêng, cả nước nói chung, là khởi điểm kinh tế của chúng ta còn vô cùng khó khăn, việc an ninh lương thực được đặt lên hàng đầu. Chính vì vậy, trong phát triển chúng ta còn mang nặng tư duy duy ý chí, chủ quan, quyết tâm cao, vắt đất ra nước, thay trời làm mưa… sẵn sàng thay đổi hiện trạng cảnh quan để thực hiện mục đích của mình. Điều này xuất phát điểm từ khi nước ta thực hiện kinh tế quy hoạch theo nguyên tắc phân bổ lực lượng sản xuất, toàn bộ tài nguyên đều do nhà nước điều phối. Ngoài ra còn có một thực tế, thời điểm đó chúng ta tiến hành rất nhiều quy hoạch của các bộ, ngành và các địa phương riêng biệt nhau, nên sự khớp nhau còn rất hạn chế. Đây là cái chúng ta phải từng bước phải học hỏi, rút kinh nghiệm và đi đến điều chỉnh.

Tình trạng chồng chéo quy hoạch đã dẫn đến tình trạng trên cùng một dòng sông, bên này quy hoạch trồng lúa cần nước ngọt, bên kia quy hoạch nuôi tôm cần nước mặn gây mâu thuẫn, xung đột, bất ổn trong cộng đồng dân cư. Đây không chỉ là vấn đề xung đột với bên nuôi tôm với bên trồng lúa mà còn xung đột với cả phân bố dân cư. Theo PGS.TS Nguyễn Thế Chinh, nguyên Viện trưởng Viện Chiến lược, Chính sách tài nguyên và môi trường, đây là lý do khiến ĐBSCL cần phải có một bản quy hoạch tích hợp. Tích hợp có nghĩa là phải mang tính hỗ trợ nhau để phát huy lợi thế của nhau.

Cách tiếp cận tích hợp và tôn trọng quy luật tự nhiên là hai điểm đột phá cho mô hình phát triển ĐBSCL. PGS. TS Bùi Thị An, Viện trưởng Viện Tài nguyên và Môi trường, phân tích lý do vì sao quy hoạch tích hợp đối với vùng lại quan trọng đến vậy. Việt Nam là nền nông nghiệp lúa nước, manh mún và cá thể đi lên nên “đèn nhà ai người nấy rạng”. Chính vì vậy, suốt cả quá trình phát triển, chúng ta đã lãng phí khá nhiều trên nhiều lĩnh vực. Một quy hoạch thiếu đồng bộ gây ra lãng phí trên nhiều lĩnh vực. Muốn phát triển bền vững, chúng ta không thể đi cá nhân được, phải có liên kết rõ ràng. ĐBSCL, có một lợi thế rất mạnh, đó là chuyển từ lúa nước sang thủy sản, năng lượng khác. Tuy nhiên, nếu cứ phát triển manh mún sẽ không có lợi mà phải quy hoạch đồng bộ trên cơ sở chỉ đạo chung.

ĐBSCL bao gồm 13 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, với 20 triệu dân, chiếm 19% dân số cả nước. Đây là vùng có lợi thế về phát triển nông nghiệp, công nghiệp thực phẩm, du lịch, năng lượng tái tạo; là trung tâm sản xuất nông nghiệp lớn nhất của Việt Nam: đóng góp 50% sản lượng lúa, 65% sản lượng nuôi trồng thủy sản và 70% các loại trái cây của cả nước; 95% lượng gạo xuất khẩu và 60% sản lượng cá xuất khẩu...

Nhiều bản quy hoạch được xây dựng theo địa giới hành chính hoặc từ góc nhìn của một ngành chuyên môn, trong khi tự nhiên không biết đến những ranh giới do con người vạch ra trên bản đồ. Từ góc độ cơ quan quản lý, ông Tăng Thế Cường, Cục trưởng Cục Biến đổi khí hậu, Bộ Tài nguyên và Môi trường cho biết, cần quy hoạch tích hợp phù hợp để không vấp phải tình trạng tự phát manh mún như những bản quy hoạch trước đây.

Ngay từ năm 2017, Thủ tướng Chính phủ đã đưa ra một cách tiếp cận để ĐBSCL phát triển bền vững, khá giả thịnh vượng trong tương lai đó chính là quy hoạch tích hợp theo quan điểm Nghị quyết 120 là thuận thiên. Hiện nay, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đang chủ trì xây dựng Quy hoạch vùng ĐBSCL. Đây chính là bản quy hoạch vùng đầu tiên được triển khai thực hiện theo cách tiếp cận tích hợp đa ngành của Luật Quy hoạch.

Vấn đề về quy hoạch tích hợp này sẽ được tính đến đầy đủ về tự nhiên. Quy hoạch tích hợp có giá trị cộng hưởng thành một thể thống nhất. Như vậy, quy hoạch phải đảm bảo tính tổng thể, toàn diện cả vùng, đồng thời đảm bảo sự liên kết với các vùng khác, đảm bảo sự kết nối với TP Hồ Chí Minh và Đông Nam Bộ. Thậm chí phải tính đến quy hoạch của các quốc gia thượng nguồn trong việc hoạt động phát triển kinh tế - xã hội ở các nước tiểu vùng sông Mê Kông. Lưu ý rằng các phương án quy hoạch tài nguyên nước rất quan trọng vì 95% lượng nước của ĐBSCL là từ bên ngoài chảy vào, từ các nước trên thượng nguồn sông Mê Kông. Trong khi đó các quốc gia ở thượng nguồn cũng khai thác, sử dụng tài nguyên nước để phát triển thủy điện và các hoạt động kinh tế - xã hội khác. Cho nên, ĐBSCL phải chịu tác động kép của những vấn đề xâm nhập mặn, sụt lún, biến đổi khí hậu và hai là các vấn đề khai thác, sử dụng nước của các quốc gia thượng nguồn. Do vậy các vấn đề về kinh tế, xã hội, tự nhiên, tài nguyên môi trường rất quan trọng đối với quy hoạch tích hợp này. Quy hoạch tài nguyên nước phải bổ sung, hỗ trợ cho quy hoạch phát triển nông nghiệp, thủy sản, mang lại sinh kế việc làm của người dân. Phương án quy hoạch đê điều trong quy hoạch tích hợp cũng phải gắn với phát triển giao thông, góp phần phát triển bền vững chứ không thể tách rời.

Để giải quyết chủ trương phát triển bền vững cho vùng ĐBSCL, đầu tiên là phải có quy hoạch tích hợp cho vùng, sao cho thích ứng với điều kiện sản xuất, trình độ sản suất, văn hóa, thói quen, tập quán của từng miền, địa phương... và thích ứng với biến đổi khí hậu. Các phương án quy hoạch chuyển từ “sống chung với lũ” sang “chủ động sống chung với lũ, ngập, nước lợ, nước mặn” và khai thác hợp lý tiềm năng tài nguyên nước lợ, nước mặn ở vùng ven biển phục vụ phát triển kinh tế - xã hội. Và quan trọng hơn cả, quy hoạch không thể giải quyết riêng lẻ, mạnh ai nấy làm, đi theo con đường riêng của mình.

Để quy hoạch tích hợp vừa bảo đảm tính đồng bộ, thể hiện sự phân công hợp tác, không bị xung đột, chồng lấn vừa xác định được các định hướng ưu tiên của vùng trong từng giai đoạn, cần có một quy hoạch cho vùng do Chính phủ chỉ đạo và giao cho một đầu mối làm thống nhất, có sự tham gia của các chuyên gia, nhà khoa học, bộ, ngành, địa phương... để không lãng phí thời gian, tiền của, sao cho sử dụng nguồn lực thấp nhất nhưng hiệu quả mang lại cao nhất.