Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đưa dân tộc Việt Nam bước vào kỷ nguyên mới - kỷ nguyên độc lập, tự do.

Ngày 28/8/1945, Chính phủ Lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đã ra Tuyên cáo trước quốc dân đồng bào cũng như toàn thế giới về việc thành lập Chính phủ mới và công bố danh sách Nội các thống nhất quốc gia.

Giáo sư Vũ Đình Hoè được Chính phủ giao nhiệm vụ giữ chức Bộ trưởng Giáo dục.

Trải qua 80 năm hình thành và phát triển (1945 - 2025), ngành Giáo dục Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu lịch sử, mốc vàng son.

Từ "diệt giặc dốt" đến cuộc cải cách giáo dục đầu tiên

Giai đoạn 1945 – 1954 là thời kỳ đặc biệt và đầy thử thách trong lịch sử dân tộc.

Ngay sau khi Cách mạng tháng Tám thành công và nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ra đời, đất nước đã phải đối mặt với muôn vàn khó khăn: “thù trong giặc ngoài”, kinh tế kiệt quệ, hơn 90% dân số mù chữ.

Thống kê thời kỳ đó, trong 100 người thì có 3 trẻ em từ 8 đến 16 tuổi đi học và 2 người lớn biết chữ, còn 95 người thất học. Có những làng không một người nào biết chữ.

Trong buổi họp đầu tiên của Hội đồng Chính phủ ngày 3/9, Chủ tịch Hồ Chí Minh đề ra sáu việc cấp bách, chống nạn mù chữ xếp thứ hai, chỉ sau nạn đói. Bác nói: "Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu. Vì vậy, tôi đề nghị mở một chiến dịch chống nạn mù chữ".

Chính phủ coi xóa nạn mù chữ, chấn hưng giáo dục là nhiệm vụ cấp bách, phục vụ kháng chiến, kiến quốc.

Nhiệm vụ "diệt giặc dốt", được triển khai mạnh mẽ qua phong trào Bình dân học vụ, biến việc học chữ Quốc ngữ thành nghĩa vụ bắt buộc và miễn phí cho toàn dân.

Song song đó, một nền giáo dục hoàn toàn mới được định hình, dựa trên ba nguyên tắc cốt lõi: dân tộc hoá (lấy tiếng Việt làm ngôn ngữ chính), khoa học hoá (chống lối học giáo điều), và đại chúng hoá (phục vụ đông đảo nhân dân).

Khi cuộc kháng chiến lan rộng, giáo dục đã có sự chuyển mình mạnh mẽ, trở thành một mặt trận thực sự với phương châm "Học để kháng chiến".

Đỉnh cao của sự chuyển hướng này là cuộc Cải cách giáo dục toàn diện năm 1950, nhằm kiến thiết một hệ thống giáo dục mới, thống nhất và liên thông, phục vụ trực tiếp cho cuộc chiến và công cuộc kiến quốc tương lai.

Cuộc cải cách đã thay thế hệ thống phổ thông 12 năm bằng hệ thống 9 năm gọn nhẹ hơn, đồng thời xây dựng lại toàn bộ chương trình và sách giáo khoa theo hướng thiết thực, khoa học và đậm tinh thần dân tộc.

Thành tựu nổi bật của giáo dục trong giai đoạn này là xây dựng nền tảng tư tưởng mới trên các nguyên tắc: dân tộc hoá, khoa học hoá, đại chúng hóa, với đỉnh cao là cuộc Cải cách giáo dục năm 1950 và việc đưa tiếng Việt thành ngôn ngữ giảng dạy chính thức ở mọi cấp học.

Phong trào Bình dân học vụ và Bổ túc văn hóa là một kỳ tích, xóa mù chữ cho hàng triệu người và nâng cao dân trí, củng cố niềm tin vào chế độ mới.

Bất chấp chiến tranh, hệ thống trường lớp từ mầm non đến đại học không ngừng được mở rộng. Nhiều loại hình trường mới ra đời để đáp ứng nhu cầu kháng chiến, đặc biệt là các trường cho con em dân tộc thiểu số và học sinh miền Nam.

Đặc biệt đã đào tạo thế hệ “Công dân kháng chiến” - thế hệ cán bộ, học sinh, sinh viên có lòng yêu nước, trở thành nguồn nhân lực cốt cán cho thắng lợi của cuộc kháng chiến và công cuộc xây dựng đất nước sau này.

Giáo dục hai miền Nam-Bắc và cuộc cải cách giáo dục lần 2

Giai đoạn 1954-1975 là giai đoạn "đặc biệt" trong lịch sử dân tộc, khi đất nước bị chia cắt thành hai miền với hai thể chế và con đường phát triển đối lập.

Miền Bắc đi theo con đường xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, còn miền Nam nằm dưới quyền chi phối của Mỹ và chính quyền Việt Nam Cộng hòa.

Bối cảnh đó đã tác động sâu sắc khiến nền giáo dục giai đoạn này trở nên đa dạng, đạt được những thành tựu nhất định và có sự khác biệt về bản chất, mục tiêu của giáo dục hai miền.

Trong giai đoạn 1954–1975, Đảng và Nhà nước luôn coi giáo dục là một mặt trận trọng yếu gắn liền với sự nghiệp cách mạng. Chủ trương nổi bật được thể hiện qua cuộc Cải cách giáo dục năm 1956 và Nghị định số 1027-TTg (27/8/1956) ban hành Chính sách giáo dục phổ thông, xác định mục tiêu đào tạo thế hệ trẻ toàn diện, trung thành với Tổ quốc, có tài, có đức để xây dựng chủ nghĩa xã hội và thực hiện thống nhất đất nước.

Trong giai đoạn này, một trong nhữnng thành tựu giáo dục quan trọng là miền Bắc đã cơ bản xóa nạn mù chữ. Đến năm 1958 có 93,4% nhân dân độ tuổi 12 – 50 ở đồng bằng và trung du biết đọc, biết viết. Đây là cơ sở cho việc nâng cao dân trí, phát triển văn hóa, kinh tế của đất nước.

Cuộc cải cách giáo dục 1956 đã xây dựng một hệ thống giáo dục quốc dân hoàn chỉnh, từ mầm non đến đại học, mở rộng mạng lưới đến tận các xã. Hàng vạn cán bộ, trí thức, kỹ sư, bác sĩ, giáo viên được đào tạo, trở thành lực lượng chủ chốt xây dựng miền Bắc và chi viện cho miền Nam.

Ngay cả trong chiến tranh, giáo dục miền Bắc vẫn duy trì ổn định, bảo đảm “học không gián đoạn”. Quy mô giáo dục tăng đều, số học sinh phổ thông từ hơn 4,6 triệu (1972-1973) lên hơn 5,2 triệu (1974-1975).

Ở miền Nam, trong vùng giải phóng, nền giáo dục cách mạng đã chứng minh sự linh hoạt, bền bỉ, xây dựng mạng lưới trường lớp dân chủ, đào tạo cán bộ phục vụ kháng chiến, in ấn và phổ biến hàng triệu bản sách giáo khoa.

Dù chiến tranh khốc liệt và đất nước chia cắt, giáo dục Việt Nam trong giai đoạn 1954 – 1975 vẫn đạt được những thành tựu đáng kể.

Nhưng trong bối cảnh thực tiễn lúc đó, đặt ra yêu cầu đổi mới, thống nhất và nâng cao chất lượng giáo dục trên phạm vi cả nước sau ngày đất nước hoàn toàn giải phóng.

Thống nhất giáo dục hai miền, vượt khó cải cách giáo dục lần thứ ba

Giai đoạn 1975 – 1986 là một chặng đường lịch sử đặc biệt. Giáo dục Việt Nam thời kỳ này có thể chia thành hai giai đoạn rõ rệt: giai đoạn 1975 – 1978, tập trung vào các nhiệm vụ cấp bách hậu chiến: tiếp quản, ổn định và thống nhất bước đầu hệ thống giáo dục trên phạm vi cả nước; giai đoạn 1979 – 1986: triển khai cuộc Cải cách giáo dục toàn diện lần thứ ba trong bối cảnh đất nước rơi vào khủng hoảng kinh tế – xã hội sâu sắc.

Tháng 6 năm 1975, chỉ hơn một tháng sau ngày giải phóng, Ban Bí thư ban hành hai chỉ thị lịch sử (số 221-CT/TW và 222-CT/TW) về công tác giáo dục ở miền Nam.

Trong đó, tập trung vào các nhiệm vụ đưa giáo dục miền Nam trở lại hoạt động bình thường, cải tạo nền giáo dục cũ theo định hướng xã hội chủ nghĩa; Xoá mù chữ và Bổ túc văn hoá; Phát triển hệ thống giáo dục: mở rộng mạng lưới trường lớp từ mầm non đến phổ thông, ưu tiên tiếp nhận con em nhân dân lao động; Thống nhất quản lý: quốc hữu hoá toàn bộ trường tư thục, đưa hệ thống giáo dục đại học vào dưới sự quản lý thống nhất của Nhà nước.

Tại Đại hội Đảng IV (1976), Đảng xác định: “Giáo dục là nền tảng văn hoá của một nước, là sức mạnh tương lai của một dân tộc”.

Nghị quyết 14-NQ/TW (tháng 1/1979) về Cải cách giáo dục được xem là văn kiện pháp lý quan trọng nhất, chính thức khởi động cuộc Cải cách giáo dục lần thứ ba.

Nghị quyết này mang tính chất như một “cương lĩnh cải cách giáo dục lâu dài”, đề ra các mục tiêu và giải pháp cốt lõi: Xây dựng hệ thống giáo dục phổ thông 12 năm trên toàn quốc, chia làm hai bậc: phổ thông cơ sở (9 năm) và phổ thông trung học (3 năm), xoá bỏ sự khác biệt giữa hệ 10 năm ở miền Bắc và 12 năm ở miền Nam; Biên soạn một bộ chương trình và sách giáo khoa thống nhất trên cả nước theo tinh thần hiện đại, thiết thực, kết hợp chặt chẽ giữa khoa học tự nhiên và khoa học xã hội;

Thực hiện nguyên lý giáo dục “Học đi đôi với hành, giáo dục kết hợp với lao động sản xuất”, tăng cường giáo dục kỹ thuật tổng hợp và hướng nghiệp cho học sinh; Mục tiêu đào tạo là xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa với đầy đủ các phẩm chất về trí tuệ, đạo đức, thể chất và thẩm mỹ.

Thành tựu giáo dục quan trọng trong giai đoạn này là thống nhất thành công hệ thống giáo dục quốc dân. Việc xoá bỏ sự chia cắt về cơ cấu, nội dung và quản lý đã tạo ra một nền tảng pháp lý và tổ chức vững chắc cho sự phát triển giáo dục trong các giai đoạn tiếp theo.

Bất chấp khủng hoảng, mạng lưới trường lớp từ mầm non đến đại học vẫn được duy trì và mở rộng đến khắp các vùng miền, đảm bảo quyền học tập cho hàng chục triệu người dân, thể hiện sự ưu việt của chế độ.

Bên cạnh đó, giai đoạn này đã hình thành và thể chế hoá một cách hệ thống các quan điểm, đường lối chỉ đạo của Đảng và Nhà nước về giáo dục xã hội chủ nghĩa, trở thành kim chỉ nam cho hoạt động của ngành trong suốt một thời gian dài.

Xã hội hóa giáo dục, đưa giáo dục đào tạo hội nhập thế giới

Giai đoạn từ 1986-2000, đây là chặng đường lịch sử đầy biến động, chứng kiến cuộc chuyển mình mạnh mẽ của đất nước và của giáo dục Việt Nam.

Trong bối cảnh khủng hoảng chung của đất nước, từ năm 1986 đến 1991 giáo dục lâm vào tình trạng suy thoái nghiêm trọng. Quy mô giáo dục giảm sút với tỉ lệ bỏ học ở các cấp tăng cao. Đội ngũ giáo viên khủng hoảng vì đời sống khó khăn, dẫn đến làn sóng bỏ nghề. Bên cạnh đó, cơ sở vật chất thiếu thốn, xuống cấp, tình trạng "dạy chay, học chay" trở nên phổ biến.

Trước những khó khăn, Ngành Giáo dục đã nỗ lực để hạn chế suy thoái, tìm đường đổi mới để ổn định.

Trong giai đoạn này, hệ thống giáo dục Việt Nam đã đạt được những thành tựu mang tính nền tảng. Đáng chú ý là ban hành các văn bản luật quan trọng như Luật Phổ cập giáo dục tiểu học (1991) và Luật Giáo dục (1998).

Các văn bản này đã chuyển nền giáo dục từ chỗ vận hành dựa trên chỉ thị sang hoạt động trong một khuôn khổ pháp lý ổn định, minh bạch.

Hệ thống giáo dục quốc dân được tái cơ cấu một cách mạnh mẽ, từ việc thống nhất bộ máy quản lý (thành lập Bộ Giáo dục và Đào tạo), chuẩn hóa hệ phổ thông 12 năm, đến việc hình thành một cấu trúc liên thông từ mầm non đến sau đại học.

Cơ sở vật chất và môi trường giáo dục từng bước được hiện đại hóa: thông qua các chương trình mục tiêu quốc gia như "kiên cố hóa trường lớp", hàng vạn phòng học tạm bợ đã được thay thế bằng các công trình kiên cố, góp phần cải thiện đáng kể điều kiện dạy và học, đặc biệt ở các vùng khó khăn.

Chủ trương xã hội hóa đã phá vỡ thế độc quyền của hệ thống trường công, cho phép các loại hình trường dân lập, tư thục, bán công ra đời và phát triển. Mặt khác, các phương thức đào tạo cũng được mở rộng theo hướng linh hoạt, đáp ứng nhu cầu nguồn nhân lực như đào tạo từ xa…

Bước đầu đổi mới nội dung, chương trình và phương pháp giáo dục theo hướng "cơ bản, hiện đại, thiết thực", áp dụng các phương pháp dạy học tích cực, lấy học sinh làm trung tâm...

Chuyển đổi số, đào tạo nhân lực chất lượng cao

Trong giai đoạn từ năm 2000 đến 2025, Việt Nam đã có những thay đổi đổi mạnh mẽ về kinh tế, chính trị và xã hội, được thúc đẩy bởi quá trình hội nhập quốc tế sâu rộng và cuộc cách mạng công nghệ số.

Từ bối cảnh đó, giáo dục Việt Nam không ngừng đổi mới, chủ động, linh hoạt thực hiện nhiều bước tiến đột phá, kiến tạo một nền giáo dục toàn diện, sẵn sàng thích ứng với sự phát triển của thời đại.

Thành tựu nổi bật của giáo dục Việt Nam trong giai đoạn này là mạng lưới giáo dục từ mầm non đến đại học được mở rộng và hoàn thiện, cơ sở vật chất ngày càng hiện đại; số trường đạt chuẩn quốc gia và cơ sở giáo dục ngoài công lập tăng nhanh, tạo sự đa dạng về loại hình.

Hoàn thành phổ cập giáo dục: tiểu học và trung học cơ sở được duy trì vững chắc, nhiều địa phương phổ cập trung học phổ thông, và đặc biệt năm 2017, Việt Nam công nhận hoàn thành phổ cập mầm non cho trẻ 5 tuổi với gần 99% trẻ đi học.

Tỷ lệ học sinh đi học đúng độ tuổi tăng, tình trạng bỏ học giảm rõ rệt; đến năm 2020 khoảng 70% lao động qua đào tạo nghề được cấp chứng chỉ; số sinh viên/1 vạn dân tăng từ 117 (2000) lên hơn 200 (2010) và tiếp tục tăng sau đó.

Hoàn thành chu kì đầu tiên trong triển khai Chương trình giáo dục phổ thông 2018; giáo dục nghề nghiệp gắn chặt hơn với nhu cầu thị trường; bậc đại học mở rộng tự chủ, kiểm định chất lượng và có nhiều chương trình đạt chuẩn khu vực, quốc tế.

Công bằng giáo dục được cải thiện nhờ chính sách hỗ trợ học sinh nghèo, vùng khó khăn, dân tộc thiểu số, giúp gia tăng tỷ lệ nhập học của nhóm yếu thế.

Hội nhập quốc tế và chuyển đổi số trở thành động lực mới: nhiều cơ sở đào tạo liên kết quốc tế, trong khi chuyển đổi số sau đại dịch COVID-19 đã thúc đẩy xây dựng kho học liệu số, dạy học trực tuyến và quản trị hiện đại, đặt nền móng cho hệ sinh thái giáo dục số của Việt Nam.

Nhìn lại chặng đường 2000-2025, giáo dục Việt Nam đã có những bước chuyển mình mạnh mẽ với nhiều thành tựu quan trọng, nổi bật là việc hoàn thành phổ cập và đổi mới căn bản toàn diện giáo dục và đào tạo. Bước vào giai đoạn mới, với bối cảnh hội nhập quốc tế sâu rộng, việc tiếp tục đổi mới trở nên cấp thiết.

Vì vậy, chuyển đổi số toàn diện, tăng cường tự chủ và thắt chặt liên kết giữa nhà trường với xã hội chính là những nhiệm vụ chiến lược để xây dựng nguồn nhân lực chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững của đất nước.