Mời các bạn bấm nút nghe nội dung:
“Giáo dục được coi là quốc sách hàng đầu” được xem như quan điểm nhất quán của Đảng và Nhà nước ta, nhấn mạnh rằng lĩnh vực này đóng vai trò quan trọng nhất, quyết định tương lai của dân tộc và là nền tảng cho sự phát triển bền vững. Trong đó đội ngũ giáo viên được nâng cao chất lượng chuyên môn, cải thiện thu nhập.
Trong điều kiện thực tế hiện nay, giáo viên vùng sâu xa, biên giới, hải đảo vẫn gặp vô vàn khó khăn, thử thách để tiếp tục “gieo con chữ, gieo yêu thương” cho học sinh.
Chuyện về người thầy giáo “một chốn bốn nơi” ở xã biên giới Bát Mọt, Thanh Hóa
Giờ học môn tiếng Anh của thầy Lê Thanh Sơn tại trường THCS Bát Mọt, xã Bát Mọt, tỉnh Thanh Hóa trong khuôn viên khang trang, sạch đẹp, mới có thêm sự hỗ trợ từ màn hình tivi cỡ lớn kết nối internet giúp học sinh được xem những hình ảnh sinh động, nghe giọng phát âm chuẩn bản ngữ. Đó được xem như sự đầu tư lớn từ ngành giáo dục cho công tác dạy học ở một xã vùng xa biên giới còn nhiều khó khăn. Hầu như toàn bộ học sinh trong lớp đều là con em đồng bao dân tộc Thái sinh sống trên địa bàn xã, nhiều em ở nội trú ngay tại trường.
“Hầu như toàn bộ học sinh đều nói tiếng Thái, giáo viên lên đây phải học tiếng Thái, dạy tiếng Anh nhưng song hành tiếng Thái. Để không thua so với đồng nghiệp dưới xuôi, bản thân tôi phải luôn chau dồi kiến thức, học thêm trên mạng và tham gia các lớp tập huấn của Sở”, thầy Thanh Sơn chia sẻ.
Nhưng không phải hôm nào thầy trò cũng sử dụng được tivi kết nối mạng, chỉ cần gió mạnh, đường internet trục trặc hay mất điện, việc dạy “chay” lại tái diễn. Và ở đó thầy giáo buộc phải huy động hết kinh nghiệm, kĩ năng kết hợp mô tả để những học trò người dân tộc hình dung được những khái niệm, cấu trúc ngữ pháp rất khác so với tiếng Thái hay tiếng Việt các em đang sử dụng.
Sau khi tốt nghiệp Đại học Ngoại ngữ, đại học Quốc gia, Hà Nội, nhận công tác thị trấn huyện Thường Xuân cũ thuộc tỉnh Thanh Hóa trong 7 năm, thầy Thanh Sơn nhận lệnh điều động lên xã biên giới Bát Mọt nhận công tác từ 2008.
“Nhà mình thuộc diện một chốn 4 nơi, vợ mình dạy ở Hoằng Hóa, con trai học đại học ở Hà Nội, con gái học học nội trú ở trường chuyên của tỉnh. Mình phải dung hòa, công việc thì Đảng nhà nước phân công, cuối tuần cố gắng về động viên các con. Nói thật là để cả nhà đoàn tụ khó lắm nhưng thương học sinh ở đây. Nếu không đi học, các em phải vào rừng lao động kiếm củi. Phải động viên các em đi học, nhiều khóa các em cũng thành nghề giáo viên, làm công an”.
Nhắc đến gia đình, đến các con, gương mặt thầy Thanh Sơn thoáng nét ưu tư. Trước đây khi con còn nhỏ, dù đường đèo núi gập ghềnh, nhiều nguy hiểm, cuối mỗi tuần chạy xe máy về, thầy Sơn sẽ có được gần hai ngày bên gia đình. Bây giờ đường xá tốt hơn nhưng để cả nhà có bữa cơm sum họp phải chờ những dịp nghỉ lễ dài.
Tốt nghiệp trường đại học Sư Phạm Hà Nội, về quê nhận công tác và cưới chồng, cô giáo Nguyễn Thị Lan, vợ thầy Sơn đồng thời bắt đầu quãng thời gian xa chồng.
“Trước đường xá khó khăn thì tối thứ 6 về, chiều chủ nhật lên nhưng giờ đường tốt hơn thì 3h sáng thứ 2 thức dậ,y đi lên trên đó. Thật sự cũng tủi thân, vất vả, đêm hôm con sốt con ốm không có một ai, một mình mình, thật sự thì cũng có khi về cáu chồng”, nhắc nhau cùng cố gắng nhưng nhắc tới chặng nuôi con nhỏ, giọng cô Lan ngấn nước.
Chăm sóc, đưa đón, dạy dỗ con ở nhà hầu hết đều do cô giáo Lan đảm nhiệm. Nhưng giai đoạn đó hai con còn ở cùng mẹ, giờ một con học ở Hà Nội, một bạn học trường chuyên của tỉnh phải vào nội trú để tiện đi lại. Ngoài những lúc được xum họp gia đình, được trò chuyện với các thành viên qua điện thoại, niềm vui của cô Lan còn ở học sinh ở ngôi trường giáo dục thường xuyên.
Với tấm bằng đại học tiếng Anh cùng nỗ lực tự rèn luyện chuyên môn, trong khi nhu cầu học tập môn Tiếng Anh của xã hội tăng lên, không ít người đã khuyên thầy Sơn về nhà tìm cơ hội việc làm khác thu nhập tốt hơn, điều kiện thuận lợi hơn và quan trọng được gần vợ gần con. Nhưng tình cảm với học sinh vùng khó, với hoàn cảnh gia đình các em được chứng kiến hằng ngày đã “giữ” thầy Thanh Sơn ở lại và tiếp tục “gieo con chữ”.
Có lẽ câu chuyện của thầy Sơn không phải cá biệt trong 16 thầy cô ở ngôi trường này, trong cộng đồng những giáo viên đang ngày đêm bám lớp bám trường ở vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo…Nhưng với nhiều người, câu chuyện này khi tình cờ nghe được sẽ làm nên rung động, xúc cảm về những người giáo viên và nghề giáo. Ngắm nhìn ngôi trường ở một xã biên giới rộng đến hơn 200 km2 nhưng chỉ có tổng số hơn 260 học sinh bậc THCS và những người giáo viên như thầy Lê Thanh Sơn, người ta không thể không nghĩ đến những cụm từ nghe chừng rất xa xôi, cao cả: hi sinh thầm lặng, cống hiến cho giáo dục nước nhà.
Ngành giáo dục luôn đề cao và có những chính sách đặc thù với giáo viên vùng sâu xa, biên giới, hải đảo
“Tôi rất cảm động với những đồng nghiệp công tác tại những địa bàn vùng sâu xa, khó khăn, gác tình cảm riêng tư để toàn tâm toàn ý cho các em học sinh. Rất nhiều thầy cô buộc phải sống trong điều kiện gia đình mỗi thành viên ở một nơi. Đó phải ghi nhận như một sự hi sinh to lớn cho sự nghiệp giáo dục của các thầy cô”, TS Vũ Minh Đức, Cục trưởng Cục Nhà giáo và Cán bộ Quản lí Giáo dục, Bộ Giáo dục và Đào tạo chia sẻ.
Về phía Bộ Giáo dục và Đào tạo, TS Vũ Minh Đức cho biết đã và đang tập trung thực hiện những chính sách với đội ngũ nhà giáo.
Ngoài vấn đề tiền lương, phụ cấp để thầy cô yên tâm công tác, ngành giáo dục đồng thời còn quan tâm tới điều kiện ăn ở đảm bảo điều kiện thiết yếu khi công tác tại các địa bàn khó khăn. Việc xây dựng các trường học nội trú, đặc biệt chương trình xây dựng 248 trường nội trú tại các xã biên giới sẽ đảm bảo giáo viên đủ điều kiện dạy học, sinh hoạt.
Luật Nhà giáo cũng quy định việc giáo viên sau khi hoàn thành nhiệm vụ ở những địa bàn khó khăn, xa xôi sẽ điều động trở lại những nơi công tác thuận lợi hơn, hợp lí hóa cuộc sống cá nhân để yên tâm cống hiến lâu dài cho ngành giáo dục.
Vừa qua, trong phát biểu của mình, Bộ trưởng Bộ giáo dục và Đào tạo Nguyễn Kim Sơn khẳng định chưa bao giờ ngành giáo dục được chăm lo như hiện nay. Tiền lương giáo viên chính thức xếp cao nhất trong hệ thống thang bậc lương hành chính sự nghiệp từ năm 2026 được xem như một tin vui, một tín hiệu đáng mừng trong việc giữ các thầy cô ở lại với nghề và tiếp tục thu hút giáo viên bù đắp cho giáo viên đang thiếu ở nhiều địa phương, đặc biệt ở những địa bàn khó khăn.
TS Nguyễn Minh Đức khẳng định vấn đề này đã được nêu từ nghị quyết 29, kết luận về việc tiếp tục thực hiện nghị quyết 29 và mới đây trong nghị quyết 71 của Bộ Chính trị, trong đó chính sách ưu tiên vượt trội với nhà giáo được xem là ưu việt, thể hiện sự quan tâm của Đảng và Nhà nước đối với thầy cô.
“Khi xây dựng chúng tôi cũng cân nhắc rất nhiều yếu tố, trong đó có liên quan đến điều kiện kinh tế quốc gia. Hiện tại nguồn lực của chúng ta còn hạn chế và có nhiều mục tiêu cấp bách cần được ưu tiên đầu tư trong thời gian tới. Vì thế Bộ Giáo dục và Đào tạo cũng có lộ trình thực hiện 2 chính sách gồm: Nâng phụ cấp ưu đãi nghề đối với nhà giáo và thực hiện chính sách tiền lương nhà giáo cao nhất trong thang bảng lương hành chính sự nghiệp. Mong rằng các chính sách này sẽ sớm thực hiện nhưng cũng cần theo lộ trình phù hợp và đảm bảo tính khả thi trong quá trình tổ chức thực hiện”, TS Vũ Minh Đức phân tích.
Cùng ngành giáo dục, tại kì họp thứ 10, ngày 17/11 vừa qua, Quốc hội trong phần thảo luận tại tổ dự thảo Nghị quyết về một số cơ chế, chính sách đặc thù, vượt trội để thực hiện đột phá phát triển GD-ĐT. Nhiều đại biểu đã góp ý chính sách đãi ngộ cho giáo viên từ mầm mon đến phổ thông nhằm thu hút đồng thời giữ các thầy cô, đặc biệt ở những địa bàn khó khăn tiếp tục với nghề.
