Việc sáp nhập các cơ sở giáo dục đại học đang trở thành một hướng đi chiến lược nhằm tái cấu trúc hệ thống giáo dục đại học Việt Nam theo tinh thần Nghị quyết số 71-NQ/TW của Bộ Chính trị. Khi được triển khai đồng bộ, sáp nhập không chỉ giúp tối ưu hóa nguồn lực mà còn mở đường cho phát triển học thuật, hội nhập quốc tế và nâng cao đẳng cấp đại học Việt Nam.

VOV2 xin giới thiệu Bài viết của Tiến sĩ Lê Văn Út - Trưởng nhóm Nhóm Nghiên cứu Đo lường Khoa học và Chính sách Quản trị Nghiên cứu (SARAP), Trường Đại học Văn Lang phân tích bối cảnh chính sách, lợi ích, thách thức, đồng thời giới thiệu kinh nghiệm từ Đại học Aalto (Phần Lan) và các đề xuất cho lộ trình sáp nhập hiệu quả.

Nghị quyết 71 - Đột phá phát triển giáo dục và đào tạo: định hướng tái cấu trúc hệ thống đại học

Ngày 22/08/ 2025, Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 71-NQ/TW về đột phá phát triển giáo dục và đào tạo. Nghị quyết đặt mục tiêu tái cấu trúc hệ thống cơ sở giáo dục đại học (CSGDĐH), thúc đẩy sắp xếp, sáp nhập, hợp nhất và liên kết giữa các trường, hướng đến hình thành những đại học đa lĩnh vực, có sức cạnh tranh quốc tế và gắn với quy hoạch vùng.

Có thể khẳng định, chủ trương sáp nhập các CSGDĐH là một bước đi chiến lược mang tính đột phá.

Bối cảnh hiện nay, số lượng và chất lượng thực sự của các CSGDĐH Việt Nam trên bản đồ xếp hạng đại học quốc tế vẫn còn khiêm tốn - đặc biệt nếu đối chiếu với các nhóm xếp hạng uy tín như SCImago, ARWU, THE, US News, QS và URAP (gọi tắt là nhóm SATUQU), cũng như so sánh với các quốc gia trong khu vực Đông Nam Á.

Việc tái cấu trúc hệ thống giáo dục đại học theo tinh thần Nghị quyết 71-NQ/TW mở ra hướng phát triển mới, giúp toàn hệ thống giáo dục đại học Việt Nam có thể bứt phá mạnh mẽ và tiến gần hơn tới các chuẩn mực đại học uy tín toàn cầu, một cách thực chất và bền vững.

Gắn kết hai Nghị quyết 57 và 71: trụ kép của hệ sinh thái tri thức quốc gia

Ngày 22/12/ 2024, Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 57-NQ/TW về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia.

Cùng với Nghị quyết số 71-NQ/TW về đột phá phát triển giáo dục và đào tạo, hai nghị quyết này được xem là trụ kép chiến lược của hệ thống giáo dục đại học Việt Nam: Nghị quyết 57 tạo động lực đổi mới về khoa học, công nghệ và sáng tạo; Nghị quyết 71 xây dựng nền tảng thể chế, nhân lực và môi trường học thuật cho phát triển bền vững.

Khi được triển khai đồng bộ, hai nghị quyết này giúp gắn kết đào tạo với nghiên cứu và đổi mới sáng tạo, hình thành hệ sinh thái tri thức quốc gia hiện đại, nơi tri thức được tạo ra - lan tỏa - và chuyển hóa thành giá trị cho xã hội.

Lợi ích của việc sáp nhập các cơ sở giáo dục đại học

Việc sáp nhập và tái cấu trúc các CSGDĐH không chỉ giúp tối ưu hóa nguồn lực, tinh gọn bộ máy và nâng cao hiệu quả quản trị, mà quan trọng hơn, mở ra không gian phát triển học thuật mới với tầm nhìn dài hạn.

Khi được tổ chức hợp lý, sáp nhập tạo điều kiện để chuyển đổi mô hình phát triển từ đơn ngành sang đa ngành, liên ngành và xuyên ngành - hướng đi đã chứng minh hiệu quả ở nhiều quốc gia có nền giáo dục tiên tiến.

Sự hội tụ của các lĩnh vực khác nhau trong cùng một đại học giúp gia tăng năng lực nghiên cứu, mở rộng phạm vi hợp tác học thuật và thúc đẩy đổi mới sáng tạo.

Các nguồn lực về nhân sự khoa học, cơ sở vật chất, dữ liệu nghiên cứu và tài chính được tích hợp, hình thành những trung tâm nghiên cứu mạnh có khả năng giải quyết các vấn đề phức tạp mang tính liên ngành, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội và chuyển đổi số quốc gia.

Trong đào tạo, sáp nhập giúp thiết kế lại chương trình học theo hướng tích hợp, gắn đào tạo với thực tiễn nghiên cứu và chuyển giao công nghệ. Người học không chỉ được trang bị kiến thức chuyên sâu mà còn phát triển tư duy hệ thống, năng lực hợp tác đa lĩnh vực và khả năng thích ứng toàn cầu.

Các chương trình đào tạo liên ngành và xuyên ngành giúp sinh viên có khả năng tham gia các dự án nghiên cứu - khởi nghiệp quốc tế, từ đó mở rộng mạng lưới hợp tác và nâng cao vị thế học thuật của các CSGDĐH.

Đặc biệt, quá trình hội tụ này tạo bước nhảy chiến lược trong năng lực cạnh tranh toàn cầu. Sự tích hợp về quy mô, nhân lực và năng lực nghiên cứu giúp các CSGDĐH Việt Nam đủ điều kiện tham gia sâu hơn vào các bảng xếp hạng quốc tế uy tín thuộc nhóm SATUQU. Đây không chỉ là mục tiêu về vị trí xếp hạng, mà còn là cơ chế thúc đẩy nâng chuẩn chất lượng nghiên cứu, minh bạch dữ liệu học thuật và hội nhập thực chất.

Thách thức trong quá trình sáp nhập

Bên cạnh những lợi ích rõ ràng, quá trình sáp nhập các cơ sở giáo dục đại học cũng đặt ra nhiều thách thức phức tạp về văn hóa tổ chức, cơ chế pháp lý, nguồn lực và quản trị học thuật.

Trước hết, sự khác biệt về văn hóa học thuật, phong cách lãnh đạo, chuẩn mực quản trị và giá trị cốt lõi giữa các CSGDĐH có thể dẫn đến xung đột về tầm nhìn, phương thức vận hành và cơ chế ra quyết định. Nếu thiếu chiến lược hòa nhập văn hóa và một mô hình lãnh đạo chuyển tiếp minh bạch, đồng thuận, quá trình sáp nhập dễ rơi vào tình trạng hợp nhất hình thức mà không đạt được hội tụ thực chất về học thuật và quản trị.

Tiếp đến là thách thức về khung pháp lý và chính sách điều phối. Hệ thống quy định hiện hành còn thiếu những cơ chế linh hoạt cho việc hợp nhất, chuyển giao tài sản, phân cấp tự chủ. Điều này đòi hỏi chính sách thử nghiệm, cơ chế giám sát độc lập và định hướng rõ ràng của cơ quan quản lý, nhằm bảo đảm quá trình sáp nhập diễn ra minh bạch, ổn định và đúng quy định.

Bên cạnh đó, tâm lý e ngại thay đổi trong đội ngũ cán bộ, giảng viên và người học cũng là một trở ngại đáng kể. Những lo ngại về vị trí công tác, quyền lợi cá nhân, hay thay đổi trong môi trường học thuật có thể ảnh hưởng đến tinh thần đoàn kết và năng suất lao động nếu không được truyền thông nội bộ tốt và bảo đảm chính sách nhân sự công bằng, minh bạch.

Ngoài ra, nguồn lực tài chính và cơ sở hạ tầng cho quá trình chuyển đổi là yếu tố then chốt. Nếu thiếu đầu tư tương xứng, việc sáp nhập dễ trở thành một biện pháp hành chính tạm thời, không tạo được giá trị học thuật dài hạn. Thậm chí, trong ngắn hạn, một số đơn vị có thể suy giảm năng suất nghiên cứu hoặc gián đoạn hợp tác quốc tế, ảnh hưởng đến thứ hạng và uy tín học thuật của toàn hệ thống.

Vì vậy, cần nhìn nhận rằng sáp nhập các CSGDĐH không chỉ là việc tổ chức lại bộ máy, mà là một quá trình học thuật, văn hóa và chiến lược lâu dài. Thành công của nó phụ thuộc vào tầm nhìn lãnh đạo, sự đồng thuận của đội ngũ và những chính sách ổn định mang tính hệ thống. Chỉ khi đó, sáp nhập mới thực sự trở thành động lực cho hội tụ tri thức và nâng cao đẳng cấp của giáo dục đại học Việt Nam.

Mặc dù các CSGDĐH tư thục không thuộc đối tượng phải sáp nhập theo Nghị quyết 71, nhưng tác động lan tỏa từ quá trình tái cấu trúc khối công lập sẽ tạo ra áp lực cạnh tranh trực tiếp và toàn diện. Các CSGDĐH công sau sáp nhập có thể tăng cường năng lực nghiên cứu, mở rộng hợp tác quốc tế, thu hút giảng viên trình độ cao và sinh viên chất lượng tốt hơn, qua đó nâng vị thế học thuật và thứ hạng quốc tế. Trong bối cảnh đó, khu vực đại học tư thục cần chủ động chuyển mình mạnh mẽ để không bị tụt lại phía sau.

Kinh nghiệm từ Phần Lan: Đại học Aalto - hội tụ để phát triển

Tôi may mắn có cơ hội thực hiện nghiên cứu sinh tiến sĩ và nghiên cứu sau tiến sĩ tại Phần Lan đúng vào giai đoạn nước này thảo luận và triển khai đề án sáp nhập ba trường đại học để hình thành Đại học Aalto. Trong số ba trường được sáp nhập, có một trường là nơi công tác của một trong hai giáo sư hướng dẫn luận án của tôi, đồng thời cũng là nơi tôi từng theo học một số học phần chuyên sâu. Việc được trực tiếp quan sát quá trình chuẩn bị, trao đổi học thuật và những thay đổi về tổ chức, quản trị trong thời kỳ ấy là một trải nghiệm vô cùng thú vị và để lại ấn tượng sâu sắc đối với tôi.

Đại học Aalto là một trong những ví dụ thành công nhất thế giới về sáp nhập đại học có tầm nhìn dài hạn. Đại học này được thành lập ngày 01/01/2010, sau hơn 5 năm chuẩn bị kỹ lưỡng. Từ năm 2004, Chính phủ Phần Lan đã khởi xướng ý tưởng 'Đại học sáng tạo', với mục tiêu hợp nhất ba lĩnh vực trụ cột của nền kinh tế tri thức - kỹ thuật, kinh tế và nghệ thuật. Ba cơ sở được lựa chọn gồm Đại học Kỹ thuật Helsinki, Đại học Kinh tế Helsinki và Đại học Nghệ thuật - Thiết kế Helsinki.

Chính phủ Phần Lan coi đây là dự án cải cách chiến lược quốc gia, huy động cả Nhà nước, doanh nghiệp và xã hội cùng tham gia. Chính phủ đầu tư ban đầu 500 triệu euro, khu vực tư nhân đóng góp hơn 200 triệu euro thông qua Quỹ Đại học Aalto - quỹ tài trợ tư nhân đầu tiên trong lịch sử giáo dục Phần Lan. Để vận hành mô hình mới, Luật Đại học năm 2009 được sửa đổi, trao quyền tự chủ toàn diện cho Aalto về tổ chức, tài chính và học thuật.

Một điểm đột phá là việc bổ nhiệm Hiệu trưởng Tuula Teeri - người không xuất thân từ ba đại học thành viên được hợp nhất mà là Phó Hiệu trưởng Học viện Công nghệ Hoàng gia Thụy Điển (KTH) - làm Hiệu trưởng đầu tiên của Đại học Aalto. Việc lựa chọn lãnh đạo bên ngoài giúp bảo đảm tính khách quan, đổi mới văn hóa tổ chức và thúc đẩy tư duy quốc tế hóa ngay từ đầu. Hiệu trưởng Teeri được xem là người định hình bản sắc mới của Đại học Aalto: sáng tạo, hợp tác và toàn cầu hóa.

Sau sáp nhập, Đại học Aalto đã triển khai bốn đổi mới chiến lược: (1) mô hình quản trị hiện đại với Hội đồng trường có đại diện học giới, doanh nghiệp và cộng đồng; (2) cấu trúc học thuật liên ngành, cho phép kỹ sư, nhà thiết kế và nhà kinh tế học cùng nghiên cứu, giảng dạy và khởi nghiệp; (3) cơ chế tài chính mở, tạo hệ sinh thái đổi mới sáng tạo với đa dạng doanh nghiệp spin-off; và (4) văn hóa sáng tạo, chấp nhận thử nghiệm và thất bại như một phần của học tập, nghiên cứu.

Sau khi ba trường đại học được sáp nhập và Đại học Aalto chính thức được thành lập, đại học này đã phát triển mạnh mẽ, đạt được nhiều thành tựu vượt bậc đúng như kỳ vọng của Chính phủ Phần Lan.

Hiện nay, sinh viên sau đại học (cao học và nghiên cứu sinh) chiếm tới 51% tổng quy mô đào tạo, sinh viên quốc tế chiếm 26%, còn giảng viên quốc tế toàn thời gian chiếm 40% - những con số thể hiện rõ mức độ quốc tế hóa sâu rộng của Đại học Aalto.

Theo các bảng xếp hạng đại học uy tín trên thế giới, Đại học Aalto hiện đứng thứ 271 theo US News, thứ 195 theo THE, và đặc biệt là thứ 114 thế giới và số 1 tại Phần Lan theo QS. Sau 15 năm kể từ khi được thành lập từ sáp nhập, Đại học Aalto đã trở thành một trung tâm đổi mới sáng tạo hàng đầu Bắc Âu, quy tụ hàng trăm doanh nghiệp khởi nghiệp, đồng thời như một hình mẫu điển hình cho mô hình đại học sáng tạo, hội nhập và gắn kết chặt chẽ với doanh nghiệp.

Đề xuất để việc sáp nhập đạt hiệu quả

Từ kinh nghiệm quốc tế và thực tiễn giáo dục Việt Nam, có thể rút ra rằng việc sáp nhập các CSGDĐH chỉ thực sự thành công khi được triển khai trên cơ sở tầm nhìn quốc gia, đầu tư chiến lược và cơ chế tự chủ thực chất.

Bài học cho Việt Nam là cần một lộ trình rõ ràng, đội ngũ lãnh đạo có tư duy toàn cầu và hệ thống quản trị hướng đến hội tụ tri thức, thay vì hợp nhất hành chính đơn thuần. Quan trọng hơn cả là xây dựng văn hóa đại học sáng tạo và cởi mở, nơi tri thức được hội tụ, lan tỏa và chuyển hóa thành giá trị cho xã hội.

Nếu được chuẩn bị kỹ lưỡng, Việt Nam có thể hình thành những CSGDĐH hội tụ tri thức - nơi giáo dục, khoa học và đổi mới sáng tạo phát triển song hành, tạo nền tảng cho các trung tâm tri thức quốc gia.

Để đạt hiệu quả thực chất, cần sớm ban hành khung pháp lý thống nhất cho việc sáp nhập, hợp nhất và liên kết các CSGDĐH, trong đó làm rõ quy trình, tiêu chí và thẩm quyền phê duyệt. Cần triển khai thí điểm các mô hình sáp nhập tự nguyện, đi kèm cơ chế tự chủ học thuật và tài chính đầy đủ, nhằm khuyến khích các đại học mạnh chủ động kết nối, hội tụ nguồn lực.

Song song đó, thiết lập quỹ hỗ trợ chuyển đổi và phát triển hệ sinh thái nghiên cứu - đào tạo - đổi mới sáng tạo sau sáp nhập, giúp các CSGDĐH duy trì ổn định và phát huy năng lực mới.

Một nội dung quan trọng khác là xây dựng bộ chỉ số đánh giá kết quả sáp nhập dựa trên năng lực nghiên cứu, chất lượng đào tạo, hiệu quả chuyển giao tri thức và tác động xã hội. Việc đo lường này sẽ giúp bảo đảm tính minh bạch, trách nhiệm giải trình và định hướng cải tiến liên tục, đồng thời cung cấp căn cứ để nhân rộng những mô hình sáp nhập hiệu quả, có giá trị thực tiễn và bền vững.