Mời nghe cuộc trao đổi giữa phóng viên VOV2 với Luật sư Trần Xuân Tiền, Trưởng Văn phòng Luật sư Đồng đội:

Trong đời sống hiện đại, việc sử dụng các hình thức ủy quyền là giải pháp linh hoạt, tiện lợi giúp giải quyết công việc hiệu quả mà không cần trực tiếp tham gia. Tuy nhiên, để tránh rủi ro, các cá nhân và tổ chức cần nắm rõ quy định pháp luật, lựa chọn hình thức ủy quyền phù hợp, và lập văn bản đầy đủ, minh bạch.

Luật sư Trần Xuân Tiền, Trưởng Văn phòng Luật sư Đồng đội cho biết, ủy quyền được định nghĩa là sự thỏa thuận giữa bên ủy quyền và bên được ủy quyền, theo đó bên được ủy quyền có nghĩa vụ thực hiện công việc nhân danh bên ủy quyền. Điều này được quy định rõ ràng tại Điều 135 Bộ luật Dân sự 2015. Theo đó, quyền đại diện được xác lập theo hai hình thức:

- Đại diện theo ủy quyền: Đây là hình thức mà trong đó, quyền đại diện được thiết lập dựa trên thỏa thuận rõ ràng giữa các bên liên quan.

- Đại diện theo pháp luật: Hình thức này được thực hiện theo quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, theo điều lệ của pháp nhân hoặc theo quy định của pháp luật.

Các hình thức ủy quyền: Theo Điều 140 Bộ luật dân sự, hình thức ủy quyền có thể xác định như sau: Văn bản ủy quyền; Quyết định của cơ quan có thẩm quyền; Điều lệ của pháp nhân hoặc theo quy định của pháp luật.

Để việc ủy quyền hợp pháp và hiệu quả, giấy ủy quyền hoặc hợp đồng ủy quyền cần đáp ứng các điều kiện sau:

• Về chủ thể:

- Bên ủy quyền: phải có đầy đủ năng lực hành vi dân sự để tự mình thực hiện công việc được ủy quyền.

- Bên được ủy quyền: phải có năng lực hành vi phù hợp với nội dung công việc được giao.

• Về hình thức

- Văn bản ủy quyền phải lập bằng văn bản (giấy ủy quyền hoặc hợp đồng ủy quyền).

- Trường hợp pháp luật quy định công việc ủy quyền phải được công chứng/chứng thực (ví dụ: ủy quyền mua bán nhà đất, ủy quyền liên quan đến đăng ký quyền sở hữu…) thì văn bản phải được công chứng/chứng thực mới có giá trị.

• Về nội dung cần ghi rõ: thông tin các bên, phạm vi ủy quyền, thời hạn ủy quyền, quyền và nghĩa vụ của các bên. Không được ủy quyền các công việc mang tính nhân thân gắn liền với cá nhân (ví dụ: kết hôn, ly hôn, lập di chúc riêng của bản thân…). Đồng thời cần đảm bảo nội dung không trái với những nguyên tắc cơ bản tại Điều 3 Bộ luật dân sự 2015 (bình đẳng, tự do thỏa thuận, không trái pháp luật, trái đạo đức xã hội,..)

Theo Điều 562 Bộ luật Dân sự 2015, hợp đồng ủy quyền là sự thỏa thuận giữa các bên, trong đó bên được ủy quyền sẽ thay mặt bên ủy quyền thực hiện một công việc nhất định; còn bên ủy quyền có nghĩa vụ trả thù lao nếu có thỏa thuận hoặc pháp luật quy định.

Đối với bên ủy quyền, họ có nghĩa vụ cung cấp thông tin, tài liệu, phương tiện cần thiết, chịu trách nhiệm về cam kết trong phạm vi ủy quyền, thanh toán chi phí, trả thù lao nếu có thỏa thuận theo Điều 566 Bộ luật dân sự 2015. Bên ủy quyền có quyền được yêu cầu báo cáo, thông báo về việc thực hiện công việc, nhận lại tài sản, lợi ích thu được, trừ khi có thỏa thuận khác, yêu cầu bồi thường nếu bên được ủy quyền vi phạm nghĩa vụ theo Điều 567 Bộ luật dân sự 2015.

Cụ thể, quyền và nghĩa vụ của bên được ủy quyền được quy định tại Điều 565, 566 Bộ luật dân sự 2015. Trong đó, bên ủy quyền có nghĩa vụ: phải thực hiện công việc đúng phạm vi ủy quyền, báo cho bên ủy quyền và người thứ ba liên quan; bảo quản tài liệu, giữ bí mật thông tin; giao lại tài sản, lợi ích đã nhận; và bồi thường nếu vi phạm. Quyền của bên được ủy quyền là được yêu cầu cung cấp thông tin, tài liệu, phương tiện để làm việc; được thanh toán chi phí hợp lý và hưởng thù lao nếu có thỏa thuận.

Việc ủy quyền có thể chấm dứt theo thỏa thuận, khi công việc ủy quyền đã hoàn thành hoặc người ủy quyền đơn phương chấm dứt việc ủy quyền. Theo Điều 569 Bộ luật Dân sự 2015, người ủy quyền có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng ủy quyền bất cứ lúc nào.

Tuy nhiên, để đảm bảo tính minh bạch và tránh phát sinh tranh chấp, pháp luật yêu cầu: người ủy quyền phải báo trước cho bên được ủy quyền một thời gian hợp lý, đồng thời phải bồi thường thiệt hại nếu việc chấm dứt đột ngột gây thiệt hại cho bên được ủy quyền. Trong trường hợp hợp đồng ủy quyền có thù lao, người ủy quyền còn phải trả thù lao tương ứng với công việc mà bên được ủy quyền đã thực hiện trước khi chấm dứt.

Nói cách khác, dù có quyền đơn phương chấm dứt, nhưng người ủy quyền vẫn phải tuân thủ nguyên tắc thiện chí, thông báo kịp thời và bồi thường thiệt hại nếu có, để bảo đảm quyền lợi cho bên được ủy quyền và tính công bằng trong quan hệ dân sự.