Luật sư Nguyễn Văn Hưng, Giám đốc Công ty luật Phúc Khánh Hưng thông tin các quy định pháp luật hiện nay về tạm giữ, tạm giam trong tố tụng hình sự:

Theo Luật sư Nguyễn Văn Hưng, căn cứ Bộ luật Tố tụng hình sự hiện hành, tạm giữ và tạm giam là các biện pháp ngăn chặn được áp dụng trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử nhằm bảo đảm cho việc giải quyết vụ án được nhanh chóng, khách quan, đúng pháp luật. Bản chất của hai biện pháp này là hạn chế một số quyền nhân thân của người bị áp dụng, trong đó có quyền tự do đi lại, trong một thời gian nhất định.

Căn cứ Điều 117 Bộ luật Tố tụng hình sự, biện pháp tạm giữ được áp dụng đối với: Người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp; Người bị bắt trong trường hợp phạm tội quả tang; Người phạm tội tự thú, đầu thú; Người bị bắt theo quyết định truy nã.

Theo quy định tại Điều 118 Bộ luật Tố tụng hình sự, thời hạn tạm giữ không quá 3 ngày, kể từ thời điểm cơ quan có thẩm quyền nhận người bị giữ, người bị bắt hoặc ra quyết định tạm giữ đối với người tự thú, đầu thú.

Trong trường hợp cần thiết, người ra quyết định tạm giữ có thể: Gia hạn tạm giữ một lần không quá 3 ngày; Trường hợp đặc biệt, có thể gia hạn lần thứ hai nhưng cũng không quá 3 ngày. Nếu trong thời gian tạm giữ hoặc sau khi hết thời hạn tạm giữ mà không đủ căn cứ khởi tố bị can, thì cơ quan điều tra hoặc Viện kiểm sát phải trả tự do ngay cho người bị tạm giữ.

Khác với tạm giữ, biện pháp tạm giam chỉ được áp dụng sau khi đã khởi tố vụ án, khởi tố bị can. Theo Điều 119 Bộ luật Tố tụng hình sự, tạm giam có thể áp dụng đối với: Bị can, bị cáo phạm tội đặc biệt nghiêm trọng hoặc rất nghiêm trọng; Trường hợp phạm tội nghiêm trọng hoặc ít nghiêm trọng nhưng có dấu hiệu bỏ trốn, không có nơi cư trú rõ ràng, không xác định được lý lịch; tiếp tục phạm tội; mua chuộc, cưỡng ép, xúi giục người khác khai báo gian dối; tiêu hủy, giả mạo chứng cứ; đe dọa người làm chứng, người bị hại, người tố giác tội phạm.

Ngoài ra, tạm giam cũng có thể áp dụng đối với bị can, bị cáo phạm tội ít nghiêm trọng mà Bộ luật Hình sự quy định mức hình phạt tù đến 2 năm nếu tiếp tục phạm tội hoặc bỏ trốn và bị bắt theo quyết định truy nã.

Tuy nhiên, pháp luật hạn chế áp dụng tạm giam đối với phụ nữ có thai, người đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi, người già yếu, người bị bệnh nặng có nơi cư trú, lý lịch rõ ràng, trừ trường hợp đặc biệt theo quy định.

Luật sư Nguyễn Văn Hưng nhấn mạnh, dù bị hạn chế một số quyền, nhưng người bị tạm giữ, tạm giam vẫn được pháp luật bảo đảm nhiều quyền cơ bản.

Theo Điều 9 Luật Thi hành tạm giữ, tạm giam năm 2015, người bị tạm giữ, tạm giam có quyền được bảo đảm an toàn về tính mạng, sức khỏe, danh dự; được chăm sóc y tế; được gặp thân nhân, luật sư; được thực hiện quyền bào chữa, khiếu nại, tố cáo; được bồi thường nếu bị giữ, giam trái pháp luật. Bên cạnh đó, họ cũng có nghĩa vụ chấp hành quyết định, yêu cầu của cơ quan có thẩm quyền và nội quy cơ sở giam giữ./.