Khoa thăm dò chức năng - Bệnh viện Bệnh Nhiệt đới Trung ương đã thực hiện cắt ESD (Endoscopic submucosal dissection) là phương pháp cắt khối u tổn thương cho bệnh nhân u tuyến đại tràng sigma.

Bệnh nhân là bà Đ.T. C, 68 tuổi ở Dương Kinh – Hải Phòng, có tiền sử cao huyết áp, đái tháo đường. Bệnh nhân có thể trạng thấp, béo và 2 lần bị tai biến mạch máu não đã điều trị ổn định.

Khi đến khám tại Bệnh viện Bệnh Nhiệt đới Trung ương bà C. được phát hiện u ở đại tràng sigma kích thước 3x3cm (chèn hình). Sau khi sinh thiết giải phẫu bệnh là u tuyến ống loạn sản độ thấp. Bệnh nhân được chỉ định can thiệp cắt u dưới nội soi đại tràng.

TS Trần Thanh Hà, phụ trách khoa thăm dò chức năng cho biết, thủ thuật được tiến hành thuận lợi, đảm bảo cắt toàn bộ u và diện cắt xung quanh gửi giải phẫu bệnh. Sau 30 phút làm thủ thuật, bệnh nhân đã ngồi dậy nói chuyện bình thường.

"24h đầu bệnh nhân đau nhẹ nhưng không phải dùng thuốc giảm đau. Bệnh nhân có thể ra viện trong 2-3 ngày sau khi tiến hành cắt u" - TS Trần Thanh Hà cho biết.

ESD (Endoscopic submucosal dissection) là phương pháp cắt khối u tổn thương >20mm đảm bảo tiêu chuẩn ung thư học đã được thực hiện ở Nhật Bản lần đầu vào những năm 1990 và chuẩn hoá theo hiệp hội nội soi tiêu hoá Nhật Bản vào năm 2015. Hiện nay, phương pháp này được thực hiện ở một số bệnh viện lớn ở Hà Nội như: Bệnh viện Bạch Mai, Bệnh viện Việt Đức, Bệnh viện K…

Kỹ thuật cắt u ESD được chỉ định trong các trường hợp chủ yếu là ung thư dạ dày, đại – trực tràng sớm, những tổn thương tiền ung thư như loạn sản, dị sản mà điều trị nội khoa nhiều lần không cải thiện. Đây là phương pháp mới, hiệu quả điều trị cao, thời gian nằm viện ngắn, "tuy nhiên quan trọng nhất là bệnh nhân phải được chẩn đoán sớm. Việc soi dạ dày, soi đại tràng định kỳ 6 tháng – 1 năm/1 lần đối với những người >50 tuổi là việc làm cần thiết để phát hiện tổn thương sớm kể cả ung thư." - TS Trần Thanh Hà nhấn mạnh.

Tại Việt Nam, Ung thư đại trực tràng đúng thứ 5 trong các loại ung thư thường gặp và đứng thứ 2 trong ung thư đường tiêu hoá gặp ở cả 2 giới với tyr lệ chiếm 9% (với 16.426 ca). Điều trị ung thư đại trực tràng vẫn là đa mô thức với sự phối hợp của các chuyên gia về tiêu hoá, nội soi can thiệp, ngoại khoa, ung thư…

Trước đây, ung thư đại trực tràng trong giai đoạn mổ được thường được chỉ định phẫu thuật mổ mở, mổ nội soi hay mổ robot. Với sự quan tâm của xã hội, bệnh nhân và sự phát triển phương tiên chẩn đoán ung thư sớm giúp cho việc chẩn đoán ung thư đại – trực tràng sớm ngày càng gia tăng. Mong muốn của thầy thuốc và bệnh nhân là tìm ra được phương pháp điều trị mà không phải cắt đoạn đại tràng để giảm nguy cơ biến chứng do phẫu thuật có thể gặp phải.