Xã Diễn Hồng, tỉnh Nghệ An xưa kia nằm trong tổng Lý Trai, Châu Hoan là vùng đất được mệnh danh là “địa linh nhân kiệt”, sản sinh nhiều bậc hiền tài. Trong đó “dòng họ Ngô công thần” có 5 vị thuộc 4 đời kế tiếp đỗ đại khoa. Trong đó, đặc biệt nổi bật là trường hợp hai cha con cùng đỗ đạt tại khoa thi năm Nhâm Thìn 1592 là Đệ Tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân Ngô Trí Tri và Hoàng Giáp Ngô Trí Hòa. Họ được truyền tụng trong câu ca cũng là những mỹ tự được vua Lê Thế Tông ban tặng: “Khoa danh thiên hạ hữu/ Phụ tử thế gian vô” - có nghĩa là đỗ đạt khoa bảng trong thiên hạ có nhiều người, nhưng cả cha và con cùng đỗ một khoa thi là rất hiếm.

Theo sử sách, danh nho Ngô Trí Hòa, người xã Lý Trai, huyện Đông Thành, nay là xã Diễn Hồng, tỉnh Nghệ An, sinh ngày 21 tháng 11 năm Ất Sửu, tức năm 1565, thuộc dòng dõi vua Ngô Quyền. Cụ tổ là Ngô Công Định từ Bắc Ninh vào lập nghiệp năm 1470. Đến đời thứ 5 là Đệ Tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân Ngô Trí Tri, đời thứ 6 là Hoàng Giáp Ngô Trí Hòa. Dòng họ Ngô Lý Trai được công nhận là dòng họ công thần vì có nhiều người có công phò nhà Lê mở nước.

Sinh ra trong dòng tộc có truyền thống đèn sách nên từ nhỏ Ngô Trí Hòa rất chăm chỉ học hành. Được ông nội và cha mình là Ngô Trí Tri đều là những bậc danh nho trực tiếp dạy dỗ cộng với sự thông minh hơn người nên Ngô Trí Hòa sớm thuộc làu kinh sử và tỏ ra là người lanh lợi, nhân hòa. Sử sách cũng như trong nội tộc còn truyền tụng rất nhiều câu chuyện về tài đối đáp của Ngô Trí Hòa.

Nhà nghiên cứu, dịch giả Ngô Sỹ Phan kể: “Vùng Lý Trai xưa rất nghèo, một năm chỉ cấy 1 vụ mùa mưa, còn mùa khô trồng khoai, ngô, đỗ. Gia đình cụ Ngô Trí Tri, Ngô Trí Hòa cũng nằm trong sự nghèo chung của quê hương khi ấy, nghĩa là ăn khoai thường xuyên. Một hôm đang ăn khoai, người cha mới vui vẻ đọc câu “sáng khoai, chiều khoai, khoai ba bữa. Người con là Ngô Trí Hòa chắp tay nói, con xin đối “Cha đỗ, con đỗ, đỗ cả nhà”. Người cha mừng thầm vì thấy con sáng dạ, nên quyết tâm dạy con học”.

Mùa xuân năm Nhâm Thìn, tức năm 1592, triều đình nhà Lê mở khoa thi, hai cha con Ngô Trí Tri, Ngô Trí Hòa cùng tham gia và cùng đỗ đại khoa. Nhưng người con lại đỗ cao hơn với ngôi vị Á nguyên đệ nhị giáp Tiến sĩ Hoàng Giáp, còn người cha Ngô Trí Tri đỗ đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân. Điều đặc biệt nữa là tại khoa thi này, người học trò của Ngô Trí Tri là Trịnh Cảnh Thụy đỗ Hội nguyên đệ nhị giáp tiến sĩ. Như vậy khoa thi chỉ lấy 3 người đỗ đại khoa thì cả 3 là thầy-trò, cha-con.

Tại lễ đăng quang có câu chuyện về lễ - nghĩa mà đến nay con cháu Ngô tộc còn nhắc. “Khi quan Hồng lô xướng tên Hội nguyên, Trịnh Cảnh Thụy chỉ dạ mà ko dám tiến bước, vua lấy làm lạ hỏi tại sao, Trịnh Cảnh Thụy thưa: Thầy của thần còn đứng sau, thần chưa dám mạo phạm. Khi gọi tên Ngô Trí Hòa, Ngô Trí Hòa cũng chỉ dạ mà không dám tiến lên và cũng thưa: Cha của thần còn chưa bước lên, thần chưa dám. Khi gọi đến Ngô Trí Tri, hai học trò mới dám bước lên. Vua truyền lấy lụa ghi chữ ban khen Ngô Trí Tri là người biết dạy học trò lễ nghĩa”, ông Ngô Sĩ Phan kể lại.

Sau khi đỗ đạt, hai cha con Ngô Trí Tri, Ngô Trí Hòa được vua sắc phong khen ngợi vì đỗ đạt, đồng thời cử các chức quan. Ngô Trí Tri làm quan đến chức Giám sát ngự sử đạo Quảng Nam, rồi về hưu tiếp tục mở trường dạy học, đào tạo được nhiều học trò thành đạt như Lê Kính, Lê Hiệu... Khi mất Ngô Trí Tri được sắc phong “Trác vĩ thượng đẳng thần”.

Còn người con là Ngô Trí Hòa được cử giữ chức Án sát sứ Sơn Tây, sau được thăng Hữu Thị lang Bộ Hình. Thời gian làm quan trong triều, Ngô Trí Hòa thể hiện là người có tài, có đức, luôn có ý thức góp sức xây dựng quê hương và phụng sự đất nước, khích lệ chí khí hậu sinh. Ngô Trí Hòa được nhà vua vinh phong chức Thái Bảo, Hiệp mưu tá lý dực vận tán trị công thần. Đến năm 1608, Ngô Trí Hòa được thăng chức Thượng Thư Bộ Hộ kiêm Tế Tửu Quốc Tử Giám. Khi mất ông được phong tước “Xuân quận công”.

Với công trạng và tài đức mẫn tiệp, hai cha con đồng khoa Ngô Trí Tri, Ngô Trí Hòa đã dành sự tín kính của triều đình cũng như của nhân dân, khởi phát truyền thống khoa bảng dòng họ Ngô ở Lý Trai. Đặc biệt là Hoàng Giáp Ngô Trí Hòa được vua Lê Thế Tông ban phong cho 8 chữ vàng “Vị long đầu tọa, khuê diệu tiến phù” (Viết gọn lại thành 3 đại tự “Quang Khuê Đẩu”, có nghĩa là trí tuệ sáng như sao Bắc Đẩu, là ngôi sao sáng nhất, đạo đức, cốt cách sáng như viên ngọc khuê”.

Trong sách “Lịch triều hiến chương loại chí” sử gia Phan Huy Chú ca ngợi hai cha con đồng khoa, đồng triều rằng: “Học vấn hơn người, chính thuật có thừa, trải khắp trong ngoài, đối xử chỗ nào cũng vừa, công lao tiếng tăm rõ rệt lại là bậc danh thần”.

Đặc biệt, Ngô Trí Hoà là nhà chính trị có tài, biết lắng nghe và thấu hiểu nguyện vọng của dân. Ông không ngần ngại đề xuất những điều thẳng thắn, có thể là “nghịch nhĩ” với bề trên, miễn sao có lợi cho dân, cho nước, dù ông biết rất có thể sẽ nguy hại đến tính mạng, đến dòng tộc. Ở đây thể hiện một cong người vừa có TRÍ, vừa có DŨNG.

Hơn thế, Ngô Trí Hoà còn là người có tài ngoại giao khi 2 lần được cử đi sứ Bắc triều ông đều đối đáp khiến triều đình ngoại bang nể phục.

Hơn 30 năm trải qua nhiều trọng chức dưới cùng một triều đại thời Lê-Trịnh, cha con Tiến sĩ Ngô Trí Tri, Ngô Trí Hoà đã có nhiều đóng góp cho dân cho nước. Ngoài ra, Hoàng Giáp Ngô Trí Hòa còn để lại nhiều áng thơ văn, tiêu biểu nhất là tác phẩm “Bành Thành hoài cổ” được làm trước khi đi sứ Bắc Triều.

Từ tấm gương của hai cha con Ngô Trí Tri, Ngô Trí Hòa, ngày nay, dòng họ Ngô ở Lý Trai có hàng chục người đỗ đạt là Tiến sĩ, Thạc sĩ, mỗi năm hàng chục cháu đỗ đại học… Con cháu đều ý thức trọng sự học làm đầu.

Ghi nhớ công ơn 2 vị tiến sĩ cùng các vị tiền nhân của dòng họ Ngô, nhân dân Lý Trai và dòng họ thành kính tổ chức lễ dâng hương hàng năm vào tháng 5 và tháng 11 âm lịch tại đền thờ họ Ngô. Tên của 2 vị danh nho cũng được đặt cho nhiều ngôi trường và đường phố ở Nghệ An và những thành phố lớn của đất nước.