Thủ đô Hà Nội được mệnh danh là mảnh đất ngàn năm văn hiến với 5.922 di tích, trong đó có 1 di sản văn hóa thế giới, 1 di sản tư liệu được UNESCO ghi danh, 21 di tích - cụm di tích được Thủ tưởng Chính phủ xếp hạng là di tích Quốc gia đặc biệt. Cụm di tích lịch sử - danh lam thắng cảnh hồ Hoàn Kiếm – Cầu Thê Húc - đền Ngọc Sơn được xếp hạng là Di tích Quốc gia đặc biệt vào ngày 09/12/2013 và trở thành điểm đến yêu thích của du khách trong nước và quốc tế. Nơi đây từ lâu đã trở thành một trung tâm văn hóa tín ngưỡng, là một trong những biểu tượng văn hóa đặc biệt của Thủ đô với những di tích lâu đời, chứa đựng huyền thoại.

Theo sử sách, xưa kia ở phía Đông Hồ Hoàn Kiếm có một gò đất hình tròn, người xưa gọi là Hòn Ngọc (hay là Ngọc Sơn). Đến thời Vĩnh Hựu nhà Lê năm (1735-1739), chúa Trịnh Giang cho dựng cung Thụy Khánh. Sau này, vua Lê Chiêu Thống vì trả thù nhà Trịnh nên đã cho phá hủy cung Thụy Khánh. Một thời gian sau, một người tên là Tín Trai, làm công tác từ thiện, đã khôi phục và xây dựng lại chùa Ngọc Sơn, tạo nên một không gian trang nghiêm, thanh tịnh. Sau đó, chùa được nhượng lại cho một tổ chức từ thiện, thay đổi kiến trúc và trở thành nơi thờ Tam Thánh và đổi thành Đền Ngọc Sơn.

Theo nguồn tư liệu lịch sử khác, đền Ngọc Sơn có quá trình lịch sử lâu đời mà khởi nguyên có từ khi vua Lý Thái Tổ dời đô về Thăng Long, đền có tên là Ngọc Tượng. Đến Thời Trần, đền được đổi tên thành Ngọc Sơn, thờ các anh hùng liệt sĩ trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên - Mông. Đến năm 1865, nhà nho Nguyễn Văn Siêu đã đại tu đền, xây thêm nhiều công trình như cầu Thê Húc, Tháp Bút, đình Trấn Ba. Từ đó đền thành biểu tượng văn hóa và học thuật. Trong đền, đề cao việc thờ thần Văn Xương Đế Quân, vị sao chủ trông nom khoa cử theo tín ngưỡng Đạo giáo. Cùng với đó, đền thờ anh hùng dân tộc Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn, thể hiện tinh thần yêu nước và coi trọng học vấn.

Giá trị lịch sử của Đền Ngọc Sơn nằm ở quá trình hình thành và phát triển lâu đời, phản ánh sự giao thoa của các tín ngưỡng và văn hóa, là nơi thờ phụng anh hùng dân tộc, và gắn liền với các nhân vật lịch sử như nhà nho Nguyễn Văn Siêu. Việc thờ tự thể hiện quan niệm “tam giáo đồng nguyên”, dung hòa Phật giáo, Nho giáo và Đạo giáo. Người xưa xem các vị này là tinh hoa của tam giáo – “từ, bi, cung kiệm”. Tôn thờ các thần cũng chính là tôn thờ cái thiện, cái từ bi, như vậy mới hợp với lẽ trời. Vì thế, ngôi đền còn là biểu tượng cho tinh thần yêu nước, học thuật, đồng thời là di tích quốc gia đặc biệt khẳng định giá trị văn hóa sâu sắc đối với Hà Nội và Việt Nam. Nơi đây một thời là nơi hội tụ thế hệ học trò của Thầy Phạm Quý Thích, thầy dạy của Phương Đình Nguyễn Văn Siêu; là lớp danh sĩ của Thọ Xương, Thăng Long, tạo nên nền móng và hình thành nên một số trường đào tạo nhân tài cho đất nước. Nhiều học trò của các danh sĩ đã là những bậc trọng quan Thượng thư, Tổng đốc, tướng lĩnh có nhiều đóng góp cho đất nước thời ấy.

Ngày nay, đền Ngọc Sơn cơ bản vẫn giữ nguyên kiểu dáng, quy mô như khi Phương Đình Nguyễn Văn Siêu tiến hành tu sửa và xây mới một số hạng mục vào năm 1865. Từ ngoài vào, các công trình kiến trúc gồm: Nghi Môn ngoại, Tháp Bút, Nghi Môn nội, Đài Nghiên, cầu Thê Húc, cổng Đắc Nguyệt, đình Trấn Ba, nhà Tiền Tế, Trung đường, Hậu cung, Tả hữu vu, nhà Kính thư, nhà Hậu (phòng Rùa).
Qua cổng thứ nhất, bên trái có Tháp Bút. Tháp vuông bằng đá, có 5 tầng, cao 9m, trên thân đắp nổi 3 chữ lớn: “Tả thanh thiên” tượng trưng cho nền văn hiến dân tộc. Theo sử chép, công trình này được án sát Hà Nội đương nhiệm Đặng Huy Tá và án sát nghỉ hưu Nguyễn Văn Siêu cho xây dựng năm 1865 dưới thời vua Tự Đức. Tháp Bút được xây dựng trên nền một ngọn núi có tên là Núi Độc Tôn. Tương truyền, chúa Trịnh Doanh sau khi đánh thắng giặc đã cho lính đắp núi Độc Tôn và lập đàn tế tại đây. Về sau, Nguyễn Văn Siêu cho xây dựng ngọn Tháp trên núi này với nguyện vọng “Núi biểu trưng cho chiến công, tháp tượng trưng cho văn hóa, tháp được nhờ núi mà cao thêm, núi nhờ tháp mà được truyền mãi”.

Một hiện vật giàu ý nghĩa lịch sử tại đền Ngọc Sơn là Đài Nghiên (hay chính là nghiên mực). Đài Nghiên là một công trình kiến trúc bằng đá xanh hình nửa quả đào bổ đôi, đặt dưới chân Tháp Bút và được ba con cóc (tức là thiềm thừ) nâng đỡ. Công trình này được tạc nguyên khối, trên thân khắc bài minh của nho sĩ Nguyễn Văn Siêu, mang ý nghĩa tôn vinh tri thức, học vấn và sự sáng tạo.
Tháp Bút và Đài Nghiên không chỉ là những tác phẩm kiến trúc độc đáo mà còn là những biểu tượng văn hóa, thể hiện triết lý cao siêu và tinh thần hướng thiện. Trong quần thể di tích đền Ngọc Sơn và hồ Hoàn Kiếm, chúng nổi bật như những viên ngọc quý, làm tăng thêm giá trị và ý nghĩa của không gian này.

Một điểm đặc biệt trong quần thể di tích Đền Ngọc Sơn là cây cầu Thê Húc. Là cầu nối dẫn vào đền qua hệ thống cổng và đảo Ngọc với bờ Đông của Hồ Hoàn Kiếm. Thê Húc nghĩa là “Nơi đậu ánh nắng ban mai”, tên cầu đã gợi lên bao điều thơ mộng.
Ngoài ra, ở đền Ngọc Sơn còn lưu giữ một hệ thống câu đối, hoành phi rất giá trị, hầu hết đã được dịch sang tiếng Việt. Bên cạnh đó, ở đây còn hàng chục tấm bia đá khắc ghi lịch sử xây Tháp Bút, Đài Nghiên, đình Trấn Ba, đền Ngọc Sơn và nhiều bài thơ giáng bút của Long Đỗ, Trần Hưng Đạo, Văn Xương Đế Quân, Lã Động Tân, khuyên con người làm điều thiện, bỏ điều ác.

Các bộ phận kiến trúc của khu di tích đã tạo nên sự hài hoà, đan xen không thể thiếu trong danh thắng hồ Gươm. Bề dày lịch sử văn hoá của khu di tích cùng các di tích quanh hồ như: Tháp Hoà Phong, đền Bà Kiệu, khu tưởng niệm vua Lê, đình Nam Hương, Hội khai trí tiến đức, Quảng trường Đông Kinh Nghĩa Thục đã từ lâu đã được coi là lẵng hoa, là lá phổi, là niềm tự hào của người Hà Nội và của đất nước Việt Nam nói chung.
Đền Ngọc Sơn, cầu Thê Húc kết hợp với hồ Hoàn Kiếm tạo thành một tổng thể hài hòa giữa khung cảnh thiên nhiên. Tất cả tạo nên sức hút trường tồn của một biểu tượng giữa Thủ đô ngàn năm văn hiến, là điểm du lịch không thể bỏ qua khi đến Hà Nội.