“Từ Việt Bắc về Hà Nội” là tập 3 trong bộ tiểu thuyết 5 tập “Nước non vạn dặm” của Nhà văn Nguyễn Thế Kỷ khắc họa hình tượng Chủ tịch Hồ Chí Minh ở 5 giai đoạn quan trọng trong cuộc đời và sự nghiệp cách mạng vĩ đại của Người.

Tập 1 có tên “Nợ nước non” (2022), khắc họa hình tượng Nguyễn Sinh Cung - Nguyễn Tất Thành lớn lên cùng lời ru đau đáu của bà, của mẹ thuở lọt lòng: “Con ơi nhớ lấy câu này/ Chăm lo đèn sách cho tày áo cơm/ Làm người đói sạch rách thơm/ Công danh là nợ nước non phải đền”.

“Lênh đênh bốn biển”là tên của tập 2 (2023) khắc họa hình tượng Nguyễn Tất Thành, trong tên mới Nguyễn Văn Ba, xuống con tàu biển mang tên Đô đốc Latouche Tresville sang phương Tây, như sau này Người kể lại “Tôi muốn đi ra nước ngoài xem nước Pháp và các nước khác. Sau khi xem xét họ làm như thế nào, tôi sẽ trở về giúp đồng bào ta”.

Tập 3 “Từ Việt Bắc về Hà Nội” (2024), khắc họa hình tượng Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh từ đầu năm 1941 đến ngày Cách mạng tháng Tám thành công. Trong khoảng thời gian 5 năm đó, Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh đã nhen nhóm và thổi bùng ngọn lửa cách mạng ở địa đầu Tổ quốc “Non xa xa, nước xa xa/ Nào phải thênh thang mới gọi là/ Đây suối Lê Nin, kia núi Mác/ Hai tay xây dựng một sơn hà”.

Cũng giống như ở hai tập đầu của bộ tiểu thuyết “Nước non vạn dặm”, nhà văn Nguyễn Thế Kỷ vẫn nhất quán với lối tự sự biên niên sử, chủ động tạo cho mạch truyện trôi theo trật tự thời gian tuyến tính. Người kể chuyện nêu lại những biến cố, những sự kiện quan trọng đã xảy ra; những con người có thật hay hư cấu xoay quanh nhân vật trung tâm Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh, nhưng tác giả luôn tỉnh táo để không sa vào “bẫy lịch sử”; luôn đứng vững trên địa hạt sáng tạo của văn chương để soi rọi, phản ánh chiều sâu bên trong của nhân vật, nhất là tư tưởng, tình cảm, tâm hồn, suy nghĩ, tài năng, phẩm cách của nhân vật trung tâm.

“…Đêm hôm ấy Nguyễn Ái Quốc gần như thức trắng. Nỗi xúc động như một đám mây bông quấn lấy ông. Ông nằm thật im lặng, cốt để nghe những âm thanh dù rất nhỏ trong đêm yên tĩnh dội vào qua vách nứa. Tiếng nước chảy, tiếng gió lùa, tiếng mấy con vịt lục sục chen chúc dưới gầm sàn, tiếng sừng trâu cọ vào gióng chuồng... Và, chao ôi, một mùi hương thật là thanh khiết phảng phất mãi. Hoa bưởi. Phải rồi, lập xuân rồi mà. Lúc bước lên nhà ông đã kịp nhìn thấy một cây bưởi mọc ngay bên hàng rào. Cây bưởi cao, gầy, có lẽ nó được mọc lên bởi một cái hạt vương rơi. Bây giờ thì những chùm hoa đang toả hương, thơm ngát, tràn ngập trong không gian giá lạnh…”. (Tập 3, tr16, Từ Việt Bắc về Hà Nội)

Bối cảnh hiện thực đời sống của tập 3 “Từ Việt Bắc về Hà Nội” diễn ra từ 1941 đến 1945, tình hình cách mạng Việt Nam tuy âm thầm bề ngoài nhưng sôi sục bên trong để chờ thời cơ bùng lên cơn bão táp lớn; tình hình của nước láng giềng Trung Quốc và Đảng Cộng sản Trung Quốc, của chính quyền Quốc dân; các nhân vật quan trọng của Liên Xô, của Mỹ hiện diện ở Trung Quốc; diễn biến cuộc chiến tranh thế giới lần thứ 2; gương mặt bạc nhược của một số chính khách của Việt Quốc, Việt Cách, Việt Nam Phục quốc quân… đang lưu vong ở Trung Quốc… Nhà văn Nguyễn Thế Kỷ đã xử lý thỏa đáng một khối lượng tư liệu quý giá và đồ sộ cũng như dụng công chọn lọc, sắp xếp, xâu chuỗi các nhân vật và tình tiết, kết hợp tính chân thực và sự hư cấu, sáng tạo vô cùng thành công.

Thông qua tác phẩm, bạn đọc có thêm những bất ngờ thú vị khi biết thêm về những hoạt động phong phú, tầm nhìn chiến lược, sắc sảo của lãnh tụ Hồ Chí Minh khi Người hoạt động ở Cao Bằng, Bắc Cạn, Tuyên Quang, Thái Nguyên; những chuyến qua lại biên giới Việt - Trung như con thoi của Người để móc nối liên lạc với Đảng Cộng sản Trung Quốc, nắm tình hình của chính phủ Quốc dân; việc Người bị chính quyền Tưởng Giới Thạch bắt và giam giữ hơn một năm, đày ải qua hàng chục nhà lao lớn nhỏ; hoàn cảnh ra đời của các bài thơ trong “Nhật ký trong tù”; tấm lòng quý mến của những người dân Trung Quốc với Hồ Chí Minh và các đồng chí của Người; Người trở về nước, tiếp tục lãnh đạo cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc của nhân dân ta đi đến thắng lợi của Cách mạng tháng Tám 1945...

Điều cuốn hút người đọc ở tập 3 là các trang viết về việc lãnh tụ Hồ Chí Minh cùng Trung ương Đảng thành lập Việt Nam Độc lập Đồng minh, gọi tắt là Việt Minh; Người cho ra tờ báo Việt Nam Độc lập; Người chỉ đạo thành lập các đội du kích nhỏ, biên soạn tài liệu “Cách đánh du kích”; Người thiết lập các mối quan hệ khá sớm với đại diện nước Mỹ ở Trung Quốc và sau đó với nhóm “Con Nai” của Mỹ ở Tuyên Quang giữa năm 1945... Những chi tiết ấy từ lịch sử đã đi vào văn chương, tạo cho nhiều trang viết sự mới mẻ, hấp dẫn. Trong những trường hợp và bối cảnh nhất định, chúng mang ý nghĩa như là sự “phản biện ngầm” của tác giả đối với những “diễn giải” lịch sử theo quan điểm đối lập, sai trái. Ví như vấn đề “khoảng trống quyền lực” xảy ra vào thời điểm đế quốc Nhật Bản đầu hàng quân Đồng minh vô điều kiện để từ đó dẫn đến việc lực lượng Việt Minh “nhặt được chính quyền” (?!).

Trong tư cách nhà văn và cũng là người hoạt động chính trị, Nguyễn Thế Kỷ không tranh luận về vấn đề này, nhưng tác phẩm của ông đã cho thấy rõ ràng: không hề có “chính quyền nhặt được”, mà tất cả đều là kết quả của cuộc đấu tranh cách mạng lâu dài, gian khổ, nhiều sáng tạo, bản lĩnh; việc phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, của tầm nhìn chiến lược và nghệ thuật tận dụng mọi thời cơ tạo tình thế cách mạng, làm nổi rõ hình tượng nhân vật Hồ Chí Minh thực sự thiên tài.

Đọc tập 3 của bộ tiểu thuyết “Nước non vạn dặm”, ngay tiêu đề “Từ Việt Bắc về Hà Nội”, có thể thấy rất rõ nhà văn Nguyễn Thế Kỷ luôn chú trọng và dụng công khi “đời thường hóa”, “bình dị hóa” con người và những phẩm chất vĩ đại của Hồ Chí Minh. Tác giả đã đặt nhân vật trung tâm Hồ Chí Minh vào một khung khổ không gian - thời gian phi sử thi, trong những điều kiện của môi trường sống bình thường vốn có. Ví dụ, trong quan hệ giữa Hồ Chí Minh với những người đồng chí của mình như Trường Chinh, Hoàng Văn Thụ, Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp, Lê Quảng Ba, Phùng Chí Kiên, Chu Văn Tấn... những người dân Cao Bằng chân chất mà nồng nàn yêu nước như ông Máy Lỳ, thầy tào Thình, anh thanh niên Dương Đại Lâm, chị phụ nữ Nông Thị Bảy (Nông Thị Trưng)... nhân vật Hồ Chí Minh của Nguyễn Thế Kỷ bao giờ cũng thể hiện được những giá trị, những phẩm chất cao quý mà bình dị, gần gũi, tuyệt nhiên không “thần thánh hóa”, sùng bái hóa.

Ở Hồ Chí Minh luôn chan chứa lòng yêu nước, thương dân vô bờ; tinh thần đại đoàn kết toàn dân tộc chân thành, sâu sắc; nguyên tắc cao nhất của Người là độc lập, tự do cho dân tộc; hạnh phúc, dân chủ, no ấm cho nhân dân; phương pháp và tư duy cách mạng của người là “dĩ bất biến ứng vạn biến”, tuyệt đối không giáo điều, không máy móc; đạo đức của Người là “dĩ công vi thượng”, “chí công vô tư”, xả thân vì Tổ quốc, vì nhân dân. Những tư tưởng, phẩm chất, đạo đức, phong cách đó được thể hiện bằng những việc làm cụ thể, thiết thực, nhiều khi lặng lẽ, khiêm nhường được Người thể hiện qua các bài thơ của “Ngục trung nhật ký”. Những năm tháng gian khổ ấy, Hồ Chí Minh đã lăn lộn cùng đồng chí, đồng bào để gây dựng lực lượng, tuyên truyền chính trị, huấn luyện cán bộ, tổ chức các đội du kích nhỏ, xây dựng các cơ sở cách mạng ở Cao Bằng, Bắc Cạn, Tuyên Quang, Thái Nguyên; không khí sục sôi tổng khởi nghĩa trong cả nước, nhất là ở Hà Nội, Huế, Sài Gòn.

Cùng nhân vật chính, hình tượng cao đẹp Hồ Chí Minh và nhiều cán bộ, người dân trong các bối cảnh lịch sử cụ thể, thiên nhiên, cảnh sắc trong “Từ Việt Bắc về Hà Nội” được nhà văn Nguyễn Thế Kỷ khắc họa tinh tế, sinh động, cô đọng, giàu chất thơ. Lời ăn tiếng nói của nhân vật trung tâm Hồ Chí Minh và các đồng chí, đồng bào của Người; phong tục, tập quán; lời kể của tác giả và lời thoại của nhân vật cũng được thể hiện thành công.

Ở phần cuối tập 3, nhà văn Nguyễn Thế Kỷ khắc họa thật xúc động, hào hùng không khí đất nước ta trước ngày Tổng khởi nghĩa. “Sáng sớm ngày 22 tháng 8, Hồ Chí Minh rời Tân Trào xuôi về Hà Nội. Đây là lần đầu tiên trong cuộc đời ông được đặt chân đến thủ đô của đất nước mình. Sau 30 năm lênh đênh bốn biển, đã đi qua nhiều nước, nhiều châu lục, ông mới về tới mảnh đất thân thương nơi địa đầu Tổ quốc và 5 năm tiếp theo, bằng đường rừng là chủ yếu, ông đã đi từ Cao Bằng, qua Bắc Cạn, qua Tuyên Quang, Thái Nguyên rồi vượt sông Hồng về Hà Nội. Mấy hôm rồi, sức khoẻ của ông vẫn chưa tốt, trận ốm kéo dài đúng vào lúc nhiều việc lớn, đầy khó khăn ập đến...”. “Về gần tới Hà Nội, nạn lụt đang hoành hành dữ dội. Nhiều ruộng đồng chìm nghỉm trong mênh mông nước. Nhìn nước nhấn chìm cả những ngôi nhà, bờ cây, ruộng nương, lòng ông quằn quặn một nỗi đau xót không tả xiết. Độc lập đã gần kề rồi, nhưng trong lòng ông chưa bao giờ quên câu nói của Lênin - người thầy vĩ đại của ông: "Giành được chính quyền đã khó, giữ được chính quyền còn khó hơn". Giành, giữ chính quyền, giải quyết nạn đói, nạn thất học, cải thiện lối sống lạc hậu tối tăm, và nữa, các thế lực ngoại bang đang rắp ranh tiếm quyền, xâm lược...”. (tập 3, tr181, Từ Việt Bắc về Hà Nội).

Những sáng tạo văn học thú vị làm mềm hóa các sự kiện lịch sử khô khan, làm lịch sử trở nên sống động, tuy nhiên, không làm mất đi tính chân thực của các nhân vật và sự kiện lịch sử cốt yếu trong tập 3 này. Những sự kiện lịch sử rời rạc được liên kết lại trong một không gian lịch sử, với cốt truyện, với nhân vật và những câu thoại làm nên một hệ thống câu chuyện lịch sử hấp dẫn, lôi cuốn, logic về Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh.

Có thể nói, sau khi hoàn thành, đây sẽ là bộ tiểu thuyết đồ sộ về toàn bộ cuộc đời, sự nghiệp cách mạng vĩ đại của lãnh tụ Hồ Chí Minh. Bộ tiểu thuyết không chỉ là một sản phẩm văn học đơn thuần mà hơn thế nữa, đây còn là một bộ tiểu thuyết lịch sử có giá trị cho việc tìm hiểu về cuộc đời, sự nghiệp, tư tưởng của vị lãnh tụ yêu kính của bao thế hệ người Việt Nam.