Nếu có dịp về vùng đất Hương Canh, xã Bình Nguyên, tỉnh Phú Thọ chúng ta sẽ được thăm thú nhiều cảnh đẹp hữu tình cùng nhiều di tích lịch sử đặc sắc. Trong đó có 3 ngôi đình chứa đựng những câu chuyện về những người con của Ngô Quyền Vương, đó chính là Đình Hương Canh, Đình Ngọc Canh và Đình Tiên Canh (hay còn gọi là Tam Canh).
Theo sử sách cũ ghi lại, làng Hương Canh xưa thuộc huyện Yên Lãng, phủ Tam Đái, trấn Sơn Tây (xứ Đoài), sau là thị trấn Hương Canh, huyện Bình Xuyên, tỉnh Vĩnh Phúc cũ, nay thuộc xã Bình Nguyên, tỉnh Phú Thọ. Từ xa xưa, Hương Canh đã nổi danh xứ Đoài về sự trù phú, thể hiện qua câu ca dao cổ từ đời Lê ca ngợi vùng đất này: “Xứ Nam nhất chợ Bằng Gồi/ Xứ Bắc Vân Khám, xứ Đoài Hương Canh”.
Không những vậy, Hương Canh nổi tiếng với câu ca được lưu truyền: “Ai về mua vại Hương Canh/ Ai lên mình gửi cho anh với nàng”. Theo chiết tự, “hương” nghĩa là “mùi thơm”, “canh” nghĩa là “lúa tám thơm”. Hương Canh có nghĩa là “mùi thơm của hương lúa”.
Hương Canh xưa kia được coi là một địa điểm sơ tán của thành Thăng Long mỗi khi có giặc hoặc có biến cố. Hương Canh có địa thế lưng dựa núi Tam Đảo, mặt hướng phía Sông Hồng, từ Thành Thăng Long có thể đến Hương Canh bằng đường thuỷ, qua sông Hồng rồi rẽ theo Sông Cà Lồ. Theo sử sách, làng Hương Canh được hình thành vào cuối thể kỷ thứ 10, có nhiều đóng góp trong công cuộc dựng nước và giữ nước qua các thời kỳ lịch sử. Mật độ di tích dày đặc như Đình Cả, chùa Cả, chùa Bèo, Miếu Thượng, quán Vạn, điếm Bầu… là những dấu tích ghi công trạng của làng. Đặc biệt, cụm 3 ngôi đình là đình Hương Canh, đình Ngọc Canh và đình Tiên Canh (thường gọi chung là cụm đình Tam Canh) chứa đựng nhiều giá trị độc đáo. Cụm đình này đã được xếp hạng Di tích quốc gia đặc biệt năm 2023.
Theo tư liệu của Viện Văn hóa và Phát triển, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh thì cả 3 đình cùng thờ 6 vị thần mà địa phương gọi là Lục vị Thành Hoàng - Những nhân thần triều nhà Ngô trong lịch sử nước nhà. Trong đó có con cả của Ngô Quyền là Thiên Sách Vương Ngô Xương Ngập được phong là Thiên Sách Hoàng Đế, con thứ của Ngô Quyền là Nam Tấn Vương Ngô Xương Văn được phong là Quốc Vương Thiên Tử và Đỗ Cảnh Thạc là tướng của Ngô Quyền, cùng 3 nhân vật khác được phối thờ là Linh Quang Thái Hậu, Khả Lã Nương Nương và Thị Tùng Phu Nhân. Không chỉ có giá trị về mặt kiến trúc, điêu khắc dân gian, nơi đây còn là kho tàng chứa đựng nét văn hóa dân tộc, nơi quy tụ, gắn kết cộng đồng.
Tương truyền thứ tự khởi dựng các đình lần lượt là Hương Canh, Ngọc Canh, Tiên Canh (tức đình Tiên Hường) với kết cấu gần giống nhau theo hình chữ Vương với ba tòa Tiền tế - Đại bái - Hậu cung được nối liền với nhau bởi một ống muống.
Theo nhà nghiên cứu Nguyễn Quý Đôn, Hội Khoa học Lịch sử tỉnh Phú Thọ, 3 ngôi đình này gắn liền với câu chuyện đi tránh hoạ Dương Tam Kha của Ngô Xương Ngập, con trai cả của vua Ngô Quyền.
“Năm 944, Ngô Quyền mất, lẽ ra Ngô Xương Ngập là con trai cả lên nối ngôi, nhưng Dương Tam Kha, em vợ của Ngô Quyền, là một cận thần của Ngô Quyền lại làm phản, nhân lúc cháu còn trẻ lại đang chịu tang cha nên cướp ngôi và xưng là Bắc Bình Vương. Ngô Xương Ngập khi ấy buộc phải đi tránh họa, được Phạm Lệnh Công, là một vị tướng của Ngô Quyền ở vùng Hải Dương che chở và gả con gái cho. Nhưng Dương Tam Kha biết được, cho người đi bắt, Phạm Lệnh Công phải đưa Ngô Xương Ngập lên trốn ở vùng Sông Cà Lồ, là vùng Hương Canh ngày nay", nhà nghiên cứu Nguyễn Quý Đôn kể.
"Năm 945, Dương Tam Kha sai Đỗ Cảnh Thạc và Ngô Xương Văn đem quân đi dẹp loạn ở Sơn Tây, nhưng đi đến Từ Liêm, Ngô Xương Văn và Đỗ Cảnh Thạc quay trở lại bắt Dương Tam Kha, truất ngôi. Sau đó Ngô Xương Văn lên làm vua và cùng với mẹ, dì và vợ của Ngô Xương Ngập cùng tướng Đỗ Cảnh Thạc lên tìm anh về trả lại ngôi báu. Để ghi công nơi ẩn náu Ngô Xương Ngập sau khi lên vua đã cho nhân dân xây đình”.
Về kiến trúc, cụm 3 đình Tam Canh đều có tòa tiền tế gồm 3 gian 2 chái, ứng với nét ngang thứ nhất; tòa đại đình (3 gian 2 chái) ứng với nét ngang giữa; hậu cung (3 hoặc 5 gian) ứng với nét ngang thứ ba. Các tòa ống muống ứng với nét dọc nối tiền tế, đại đình, hậu cung với nhau. Cung thờ chính, nơi đặt long ngai, nằm ở phần sau gian giữa tòa đại đình. Tất cả cột đình làm bằng gỗ lim được đẽo tạo thân cột hình “đầu cán cân, chân quân cờ”.
Kiến trúc cụm đình Hương Canh thuộc loại hình kiến trúc mở, phù hợp với các hoạt động lễ hội của người dân địa phương. Bộ mái của cụm đình Hương Canh thể hiện rõ bố cục kiểu chữ “vương”, 4 góc mái giao nhau cùng uốn cong lên tạo ra 4 góc đao nhìn rất uy nghi.
Một điểm đặc biệt nữa ở cụm 3 đình này là nghệ thuật chạm khắc có quy mộ hoành tráng và nghệ thuật chạm khắc điêu luyện đạt đến đỉnh cao về nghệ thuật điêu khắc gỗ cổ dân gian, phác họa bức tranh đời sống sinh hoạt của người dân trong xã hội phong kiến thời xưa.
Ở đình Hương Canh có 19 bức chạm lớn nhỏ ghép thành 6 mảng lớn. Trong đó có những bức chạm thể hiện một số quang cảnh như: đấu vật, bơi trải, bầu rượu túi thơ, đi săn về... Đây là hình ảnh thu nhỏ của ngày hội làng, phản ánh được phần nào sinh hoạt của nhân dân địa phương hồi cuối thế kỷ 17.
Nếu như đình Hương Canh miêu tả những trò chơi đông người, vui nhộn thì đình Ngọc Canh thiên về đặc tả những cảnh lao động, những thú vui hàng ngày của người dân nông thôn. Ngoài bức chạm “Dựng cột buồm” miêu tả cảnh đóng thuyền buồm của những người thợ, còn có những bức thể hiện cảnh uống rượu, đánh cờ, đến hát nhà quan... nội dung sinh động và bố cục chặt chẽ.
Không miêu tả nhiều cảnh sinh hoạt của con người như đình Hương Canh và Ngọc Canh, hầu hết các bức chạm trong đình Tiên Hường (Tiên Canh) chạm trổ cảnh thiên nhiên và vật thờ như hoa sen, rùa, phượng, kình nghê, trong đó sâu đậm nhất là hình rồng được khắc họa ở nhiều tư thế khác nhau như: rồng hút nước, rồng cuốn cột, cá hóa rồng...
Qua nhiều lần trùng tu, tôn tạo, kiến trúc của 3 ngôi đình có đôi chút thay đổi, nhưng những giá trị văn hoá, lịch sử cùng lòng ngưỡng vọng của nhân dân đối với 6 vị thành hoàng, các vị vua và đại quan dưới triều Ngô Vương thì vẫn còn nguyên vẹn.
Hiện nay, tại 3 ngôi đình ở Hương Canh còn lưu giữ được 25 sắc phong qua các triều đại, 19 bức cốn chạm khắc chứa đựng những câu chuyện lịch sử nhiều ý nghĩa. Hàng năm vào ngày rằm tháng Hai, rằm tháng 7 và rằm tháng 10 âm lịch, nhân dân ba làng Kẻ Cánh tổ chức lễ hội tưởng nhớ các vị thành hoàng làng.
Ngày nay, những câu chuyện, những dấu tích vẫn còn in đậm trên vùng đất Hương Canh với tên đồng, tên đất, những lễ hội mang nhiều điển tích vẫn được lưu truyền đến ngày nay./.
