Việt Nam sở hữu một hệ thống đồ sộ các di tích lịch sử - văn hóa, danh lam thắng cảnh ở cấp độ quốc gia hoặc địa phương, trải dài khắp đất nước; cùng với hệ thống các lễ hội, làng nghề truyền thống, văn hóa ẩm thực đặc sắc của các vùng miền, các di sản văn hóa - nghệ thuật, văn nghệ dân gian, bảo tàng... Đây là những tài nguyên du lịch hết sức giá trị, mang tính đặc trưng văn hóa đặc sắc của Việt Nam, là nguồn lực quan trọng tạo thế mạnh và sự khác biệt cho sản phẩm du lịch. Trong ba năm liên tiếp, 2019 đến 2021, Việt Nam được tổ chức Giải thưởng Du lịch thế giới (WTA) bình chọn là “Điểm đến văn hóa hàng đầu châu Á”. Điều đó cho thấy, giá trị di sản văn hóa của Việt Nam luôn có sức hấp dẫn, thu hút khách du lịch quốc tế.
Theo ông Vũ Thế Bình, Chủ tịch Hiệp hội Du lịch Việt Nam, mối liên kết giữa du lịch và văn hóa ngày càng sâu sắc. Xu thế toàn cầu hóa đòi hỏi phải thúc đẩy sự bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa, đặc biệt là bản sắc và sự khác biệt của văn hóa của mỗi quốc gia. Việc đưa yếu tố văn hóa vào các sản phẩm du lịch sẽ tăng sự hấp dẫn, nâng cao giá trị của các sản phẩm du lịch,tạo động lực mạnh mẽ trong phát triển kinh tế. Văn hóa du lịch trở thành một phương tiện quan trọng hỗ trợ cho công tác bảo tồn di sản và phát triển công nghiệp văn hóa.
TS. Nguyễn Anh Tuấn – Viện trưởng Viện Nghiên cứu Phát triển Du lịch cũng khẳng định, Việt Nam là quốc gia có nhiều tiềm năng để phát triển du lịch văn hóa với nguồn tài nguyên phong phú, đặc sắc: 14 Di sản văn hóa phi vật thể, 5 Di sản văn hoá vật thể, 1 Di sản hỗn hợp, 7 Di sản Tư liệu được UNESCO ghi danh; hơn 4.000 di tích được xếp hạng di tích quốc gia, 128 di tích được xếp hạng di tích quốc gia đặc biệt, trên 400 di sản văn hóa phi vật thể quốc gia và hơn 9.000 di tích được xếp hạng cấp tỉnh... Việc phát triển sản phẩm du lịch văn hóa đã mang lại nhiều lợi ích về thu nhập, việc làm và phát triển kinh tế - xã hội của các địa phương nói riêng và kinh tế - xã hội Việt Nam nói chung (tổng thu từ khách du lịch tăng trên 5 lần, từ 96.000 tỷ đồng năm 2010 lên 720.000 tỷ đồng năm 2019, trung bình tăng 26,9%, đóng góp trên 7 - 8% GDP và tác động lan tỏa trên 13,9% GDP; tạo ra trên 1,2 triệu việc làm trực tiếp và 3,6 triệu việc làm gián tiếp). Thực tế cho thấy, nhiều sản phẩm du lịch văn hóa đã trở thành thương hiệu đặc trưng, tạo nên sự khác biệt cho hệ thống sản phẩm du lịch của Việt Nam.
Tuy nhiên, theo ông Nguyễn Trùng Khánh - Tổng cục trưởng Tổng cục Du lịch, mặc dù đã có những bước phát triển đáng kể, nhưng nếu so với tiềm năng, lợi thế, các giá trị văn hóa to lớn của Việt Nam thì việc phát triển du lịch văn hóa vẫn hạn chế. Trong nhiều năm, du lịch Việt Nam được cho là rất thiếu các sản phẩm du lịch trình diễn, tương tác và trình diễn văn hóa, thiếu các công trình văn hóa nghệ thuật, các trung tâm văn hóa đặc sắc hấp dẫn du khách. Bên cạnh đó, sản phẩm du lịch văn hóa Việt Nam vẫn còn ít sáng tạo, trùng lặp, thiếu các sản phẩm khác biệt giữa nhiều địa phương, vùng miền trong cả nước; Thiếu tính đồng bộ và liên kết trong phát triển sản phẩm, vì vậy chưa tạo ra được những sản phẩm du lịch có chất lượng bền vững.
Xác định vai trò của văn hóa trong phát triển kinh tế - xã hội, ngành Du lịch đã đưa sản phẩm du lịch văn hóa trở thành một trong những dòng sản phẩm quan trọng hàng đầu được thúc đẩy phát triển trong “Chiến lược phát triển du lịch Việt Nam đến năm 2030” cũng như “Chiến lược phát triển sản phẩm du lịch Việt Nam đến năm 2025, định hướng đến năm 2030”. Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch cũng đã ban hành Quyết định phê duyệt “Đề án xây dựng thương hiệu quốc gia về du lịch văn hóa”. Theo đó, thương hiệu du lịch văn hóa Việt Nam được định vị dựa trên giá trị văn hóa đặc sắc, tập trung vào giá trị di sản và giá trị văn hóa ẩm thực, qua đó hình thành hệ thống điểm đến, sản phẩm du lịch đặc trưng, có chất lượng, giá trị cao và được thị trường đón nhận tích cực. Phấn đấu đến năm 2030, du lịch văn hóa chiếm 20 - 25% trong tổng số khoảng 130 tỷ USD tổng thu từ khách du lịch.

Thứ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch Tạ Quang Đông cho rằng, việc kết hợp chặt chẽ giữa văn hóa với du lịch là hướng đi quan trọng của du lịch Việt Nam thời gian tới nhằm khai thác những giá trị cốt lõi tốt đẹp đã được hun đúc từ hàng nghìn năm lịch sử. "Kinh nghiệm của thế giới đã chỉ ra rằng việc tuyên truyền qua các chương trình biểu diễn nghệ thuật là một trong những phương tiện và con đường nhanh nhất, hiệu quả và thú vị nhất để tiếp cận khán giả, du khách. Vì vậy, chúng ta nên có những chương trình biểu diễn nghệ thuật đề cao các giá trị văn hóa cũng như chắt lọc được câu chuyện hay chưa khai thác từ kho tàng dân gian Việt Nam. Chúng tôi rất muốn đưa thêm văn hóa vào du lịch để nhân dân có thể hiểu thêm, hiểu sâu, hiểu kỹ những nét đẹp của văn hóa truyền thống Việt Nam. Việc làm này mang tính giáo dục một cách mềm mại, rất thu hút cũng như thích hợp cho tất cả các tầng lớp nhân dân", Thứ trưởng Tạ Quang Đông nhấn mạnh.
Ông Phạm Hà, Chủ tịch Lux Group cho rằng, Việt Nam có rất nhiều tài nguyên du lịch quý giá, trong đó có 4 tài nguyên lớn nhất, độc đáo nhất là văn hóa, thiên nhiên, ẩm thực, con người. “Chúng ta có mỏ vàng di sản quý giá cho phát triển du lịch di sản văn hóa, trải nghiệm giá trị, độc đáo, giàu cảm xúc và đáng nhớ. Du lịch di sản cũng là một phần của du lịch văn hóa, là du lịch để trải nghiệm điểm đến, được tham gia các hoạt động cùng người dân bản địa, tiếp cận một cách chân thực nhất những câu chuyện của lịch sử, trong đó bao gồm cả yếu tố văn hóa, chiêm ngưỡng những tuyệt tác của thiên nhiên. Tôi muốn đưa những yếu tố văn hóa vào các hoạt động và sản phẩm du lịch của mình với mong muốn du khách có thể chạm được vào văn hóa Việt Nam một cách tinh tế, sâu sắc, làm cho trải nghiệm của họ đáng nhớ hơn tại Việt Nam và đặc biệt là phát triển du lịch di sản một cách bền vững".
Phát triển du lịch văn hóa không chỉ mang lại lợi ích kinh tế, xã hội cho địa phương, cho quốc gia và góp phần bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa Việt Nam mà còn góp phần xây dựng và định vị thương hiệu du lịch Việt Nam trên thị trường du lịch quốc tế.