Cụ thể, chu kỳ đánh giá năm 2024 của SEA-PLM, học sinh lớp 5 Việt Nam tiếp tục đạt điểm cao nhất ở lĩnh vực Đọc hiểu với điểm trung bình là 323,5 điểm. Đồng thời, điểm trung bình lĩnh vực Toán là 334,6 điểm, đứng vị trí top đầu.
Tỷ lệ học sinh Việt Nam đạt mức năng lực cao ở lĩnh vực Đọc hiểu là 66%, cao hơn tỷ lệ của các quốc gia còn lại và cao hơn mức trung bình của khu vực (đạt 40%).
Kết quả này cho thấy những nỗ lực vượt bậc của Việt Nam nhằm đảm bảo chất lượng và công bằng trong tiếp cận giáo dục.
Tuy nhiên, kết quả Đánh giá này cũng cho thấy Việt Nam cần phải lấp đầy những khoảng trống nào trong giáo dục? Đâu là những giải pháp mang tính bền vững để đảm bảo chất lượng giáo dục đối với nhóm học sinh đặc thù và các trường học khó khăn?
PGS.TS Phạm Quốc Khánh, Phó Cục trưởng Cục Quản lý chất lượng (Bộ Giáo dục và Đào tạo) dành cho P/V VOV2 (Đài TNVN) cuộc trao đổi xung quanh về kết quả Đánh giá học tập của học sinh tiểu học ở khu vực Đông Nam Á (SEA-PLM) chu kỳ 2024.
Bấm nghe chương trình:
Kết quả đánh giá không phải do “chọn học sinh giỏi để đi thi”
Phóng viên: Thưa ông, Chương trình Đánh giá kết quả học tập của học sinh tiểu học ở khu vực Đông Nam Á (SEA-PLM) được triển khai như thế nào để đảm bảo sự công bằng, chính xác về kết quả học sinh các nước Đông Nam Á tham gia Chương trình đánh giá?
PGS.TS Phạm Quốc Khánh: SEA-PLM là chương trình đánh giá khu vực do SEAMEO-Ban thư ký Bộ trưởng Giáo dục ASEAN- chủ trì, được thiết kế theo các chuẩn mực quốc tế tương tự như PISA (OECD), đặc biệt coi trọng tính khách quan, đại diện và khả so sánh giữa các quốc gia.
Quy trình khảo sát được xây dựng rất chặt chẽ, từ khâu chọn mẫu ngẫu nhiên các trường và học sinh, biên soạn đề kiểm tra theo khung năng lực chung, đến việc tổ chức coi thi, mã hoá/nhập và xử lý dữ liệu đều có sự giám sát độc lập. Việt Nam tham gia với tư cách bình đẳng, tuân thủ đầy đủ các quy định kỹ thuật chung của khu vực.
Ở chu kỳ 2024, chương trình được triển khai tại 7 quốc gia, với cùng một bộ công cụ đánh giá, cùng quy trình chọn mẫu và quy trình tổ chức khảo sát. Học sinh được chọn hoàn toàn ngẫu nhiên, đại diện cho các vùng miền và điều kiện kinh tế – xã hội khác nhau. Vì vậy, kết quả phản ánh khá sát năng lực học tập thực tế của học sinh, chứ không phải là kết quả mang tính lựa chọn hay thành tích riêng lẻ.
Kết quả khảo sát không đánh giá cá nhân học sinh nên các em làm bài với tâm thế thoải mái, không bị áp lực, từ đó tạo nên những kết quả SEA-PLM phản ánh trung thực, khách quan năng lực của học sinh Việt Nam.
Vì vậy, kết quả SEA-PLM không phản ánh thành tích cục bộ của một nhóm học sinh, mà cho chúng ta một bức tranh đáng tin cậy về năng lực học tập thực chất của học sinh tiểu học Việt Nam trong tương quan khu vực.
Phóng viên: Tại chu kỳ 2024, Việt Nam có 152 trường tiểu học, thuộc 53 tỉnh/thành phố (cũ) tham gia khảo sát, với khoảng 6.000 học sinh lớp 5 và 6.000 phụ huynh tham gia. Cách lựa chọn học sinh, giáo viên, phụ huynh tham gia đánh ở đây như thế nào và liệu các trường chỉ chọn những học sinh có năng lực vượt trội để tham gia đánh giá?
PGS.TS Phạm Quốc Khánh: Không phải như vậy. Danh sách trường và học sinh do hệ thống chọn mẫu thống kê của chương trình SEA-PLM xác định. Việt Nam không được tự chọn hay thay đổi danh sách này.
Cụ thể: Quy trình lựa chọn học sinh, giáo viên và phụ huynh tham gia (còn được gọi là chọn mẫu) cho khảo sát chính thức của Chương trình SEA-PLM do hệ thống chọn mẫu của chương trình SEA-PLM xác định, Việt Nam không được tự chọn hay thay đổi danh sách này.
Quy trình chọn mẫu được thiết kế khoa học, chặt chẽ và triển khai thống nhất qua ba bước: i) lựa chọn ngẫu nhiên nhà trường, ii) tiếp đến là lựa chọn ngẫu nhiên lớp học, iii) và cuối cùng là lựa chọn ngẫu nhiên học sinh trong các lớp được chọn, bảo đảm đáp ứng đầy đủ các tiêu chí về đối tượng khảo sát của Chương trình.
Cỡ mẫu của chương trình SEA-PLM đối với mỗi quốc gia tối thiểu khoảng 4.000 học sinh đến từ khoảng 150 trường. Để bảo đảm tỷ lệ hao hụt mẫu và dữ liệu thu thập bảo đảm tính đại diện (đa dạng các nhóm học sinh thuộc các vùng miền, điều kiện kinh tế-xã hội khác nhau…) Việt Nam tham gia với khoảng 6.000 học sinh tại 152 cơ sở giáo dục tiểu học thuộc 53 tỉnh, thành phố (cũ).
Chúng ta có thể khẳng định rằng kết quả không phải do “chọn học sinh giỏi để đi thi”, mà là kết quả trung thực của một mẫu đại diện toàn quốc.
Phóng viên: Vậy, so với chu kỳ đánh giá năm 2019, học sinh Việt Nam vẫn duy trì sự ổn định về năng lực đọc hiểu và Toán?
PGS.TS Phạm Quốc Khánh: So với chu kỳ 2019, kết quả của học sinh Việt Nam được duy trì ổn định, tiếp tục dẫn đầu và có cải thiện nhẹ. Cụ thể, điểm trung bình đọc hiểu đạt 323,5 điểm, (cao hơn ngưỡng 317 điểm của mức cao nhất theo thang đo SEA-PLM); điểm Toán đạt 334,6 điểm (cao hơn mức 8 (từ 334 đến 347 điểm) trong thang đo 9 mức (mức 9 cao nhất từ 347 điểm trở lên). Học sinh Việt Nam có 66% đạt mức năng lực cao ở Đọc hiểu và 88% ở Toán, trong khi mức trung bình của khu vực lần lượt là 40% và 36%.
Điều này cho thấy nền tảng giáo dục tiểu học của chúng ta tương đối vững; các em có khả năng đạt được trình độ như kỳ vọng vào cuối bậc tiểu học và sẵn sàng chuyển tiếp thuận lợi sang giai đoạn tiếp theo của quá trình học tập
Tuy nhiên, ổn định không có nghĩa là đã đạt đỉnh, mà là nền tảng để tiếp tục nâng cao chất lượng trong thời gian tới.
Phóng viên: Vậy kết quả đánh giá kết quả học tập của học sinh tiểu học ở khu vực Đông Nam Á cũng cho thấy những khoảng trống, những tồn tại, hạn chế nào về chất lượng học tập của học sinh Việt Nam cần được cải thiện trong thời gian tới, thưa ông?
PGS.TS Phạm Quốc Khánh: SEA-PLM cũng chỉ ra những điểm mà chúng ta cần rất thẳng thắn nhìn nhận. Mặc dù 95% học sinh Việt Nam đạt mức năng lực tối thiểu ở Toán và 86% ở Đọc hiểu - Tỉ lệ học sinh đạt mức năng lực tối thiểu cao nhất so sánh với Mục tiêu phát triển bền vững nhưng vẫn còn một bộ phận học sinh chưa thực sự vững khả năng vận dụng kiến thức vào giải quyết tình huống thực tế.
Theo kết quả đánh giá cho thấy khoảng cách giữa học sinh theo điều kiện kinh tế-xã hội, giới tính và địa bàn vẫn duy trì và chưa có dấu hiệu thu hẹp so với chu kỳ 2019. Vì vậy, đây là những tồn tại và hạn chế về chất lượng học tập của học sinh Việt Nam cần được ngành Giáo dục, chính quyền các cấp có các giải pháp để cải thiện trong thời gian tới.
Phóng viên: Kết quả khảo sát cho thấy, học sinh giàu – nghèo; thành thị – nông thôn vẫn còn tồn khoảng cách ra sao? Vì sao học sinh nam và nữ lại có xu hướng mạnh – yếu ở những môn khác nhau?
PGS.TS Phạm Quốc Khánh: Kết quả khảo sát cho thấy khoảng cách về điều kiện kinh tế – xã hội vẫn có ảnh hưởng rõ rệt đến kết quả học tập. Học sinh ở gia đình có điều kiện tốt, được hỗ trợ học tập nhiều hơn thường có lợi thế nhất định.
Xét theo điều kiện kinh tế - xã hội, nhóm học sinh có điều kiện cao đạt 334 điểm ở Đọc hiểu và 346 điểm ở Toán, trong khi nhóm học sinh có điều kiện thấp đạt 313 điểm ở Đọc hiểu và 323 điểm ở Toán.
Bên cạnh đó, xu hướng nam – nữ mạnh hơn ở các lĩnh vực khác nhau cũng phản ánh đặc điểm tâm lý, cách tiếp cận học tập và môi trường giáo dục, chứ không phải năng lực bẩm sinh.
Về giới, học sinh nữ thường đạt kết quả cao hơn ở Đọc hiểu, trong khi học sinh nam có xu hướng mạnh hơn ở Toán. Cụ thể, ở lĩnh vực Đọc hiểu, điểm trung vị của học sinh nam đạt 321 điểm, trong khi học sinh nữ đạt 326 điểm; ở Toán, học sinh nam đạt 336 điểm, còn học sinh nữ đạt 333 điểm.
Nhìn chung, mức chênh lệch này vẫn tương đối ổn định, phản ánh rằng khoảng cách về thành tích học tập giữa các nhóm học sinh theo địa bàn, giới tính và điều kiện kinh tế - xã hội vẫn là một thách thức cần tiếp tục được quan tâm và cải thiện trong thời gian tới.
Tuy nhiên, những khác biệt này không mang tính tuyệt đối và vẫn chịu ảnh hưởng mạnh từ môi trường học tập, phương pháp dạy - học và cơ hội tiếp cận tri thức.
Vì vậy, kết quả khảo sát nhấn mạnh tầm quan trọng của việc tạo môi trường học tập linh hoạt, khuyến khích tất cả học sinh phát huy thế mạnh riêng và vượt qua những hạn chế (khuyến khích và hỗ trợ học sinh phát triển toàn diện, không để yếu tố xuất thân hay giới tính trở thành rào cản), hướng tới mục tiêu công bằng và nâng cao chất lượng giáo dục.
Nâng cao năng lực học tập thực chất cho mọi học sinh
Phóng viên: Với những khoảng trống và bất cập, hạn chế như vậy, trong thời gian tới, Bộ GD-ĐT cùng các địa phương sẽ có những định hướng chính sách trọng tâm nào để khắc phục tình trạng này?
PGS.TS Phạm Quốc Khánh: Thứ nhất, nâng cao chất lượng giáo dục nền tảng, đặc biệt là đọc hiểu và Toán ở tiểu học.
Thứ hai, ưu tiên hỗ trợ các nhóm học sinh và địa bàn khó khăn, thông qua phân bổ nguồn lực, đào tạo giáo viên và cải thiện điều kiện học tập.
Thứ ba là tăng cường sử dụng dữ liệu đánh giá như SEA-PLM, PISA để hoạch định chính sách dựa trên bằng chứng.
Mục tiêu là không chỉ cải thiện điểm số, mà nâng cao năng lực học tập thực chất cho mọi học sinh.
Phóng viên: Một trong những vấn đề mà giáo dục Việt Nam đang gặp phải là tình trạng sĩ số lớp học vẫn gia tăng, nhất là các trường học tại thành phố. Điều này chắc chắn ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng giáo dục. Vậy, chúng ta sẽ phải giải quyết vấn đề này trong thời gian tới ra sao, thưa ông?
PGS.TS Phạm Quốc Khánh: Thực tế cho thấy ở nhiều đô thị lớn, sĩ số lớp học vẫn cao hơn mức khuyến nghị, có nơi lên tới 40–45 học sinh một lớp, gây khó khăn cho việc quan tâm từng em. Sĩ số bình quân theo báo cáo khoảng 40 học sinh.
Bộ GD-ĐT đang phối hợp với các địa phương để mở rộng trường lớp, bổ sung giáo viên và điều chỉnh quy hoạch mạng lưới trường học. Đây là bài toán cần thời gian và sự phối hợp đồng bộ của nhiều cấp, nhiều ngành.
Sĩ số lớp học đông, đặc biệt ở các đô thị lớn, là một thách thức hiện hữu và ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng giáo dục. Về lâu dài, đây không chỉ là vấn đề giáo dục, mà cần giải pháp tổng thể về đô thị hóa, dân cư và phân bổ nguồn lực công.
Sẽ xây dựng khung đánh giá năng lực mới
Phóng viên: Quay trở lại đánh giá kết quả học tập của học sinh, vừa rồi, Bộ GD-ĐT có đề cập đến việc phát triển một “khung đánh giá theo mức độ năng lực” từ kinh nghiệm của SEA-PLM, PISA. Vậy, khung đánh giá này được chuẩn hóa thế nào để áp dụng tại nhiều khu vực ở Việt Nam cũng như tương thích với các chuẩn đánh giá của thế giới?
PGS.TS Phạm Quốc Khánh: Khung đánh giá năng lực mới, được xây dựng từ kinh nghiệm SEA-PLM và PISA, giúp phân chia rõ học sinh theo các mức độ, từ tối thiểu đến cao (các mức đạt xuất sắc, tốt, đạt và không đạt). Quan trọng hơn, khung đánh giá này có khả năng liên thông với các chuẩn quốc tế, tạo điều kiện để so sánh và hội nhập.
Khung này giúp giáo viên, nhà trường và nhà quản lý xác định chính xác học sinh đang ở đâu (đạt hay chưa đạt, mà còn biết khoảng bao nhiêu phần trăm học sinh đang ở mỗi mức năng lực), từ đó có biện pháp hỗ trợ phù hợp và cũng bảo đảm khả năng so sánh với chuẩn quốc tế.
Khung đánh giá sẽ góp phần: Thống nhất nhận thức về đánh giá theo năng lực học sinh; Giáo viên hiểu và được hướng dẫn cách chuyển yêu cầu cần đạt thành chỉ báo năng lực; Cung cấp quy trình, hướng dẫn kỹ thuật xây dựng công cụ đánh giá (cũng như ví dụ, bài thực hành cụ thể để giáo viên dễ áp dụng).
Phóng viên: Khung đánh giá năng lực này sẽ hướng đến việc nâng tỷ lệ học sinh đạt mức cao ra sao để không chỉ đạt chất lượng giáo dục ở mức cao khu vực Đông Nam Á mà phải hướng đến các nền giáo dục tiên tiến trên thế giới, góp phần thực hiện mục tiêu đến năm 2045 Việt Nam có hệ thống giáo dục quốc dân hiện đại, công bằng và chất lượng, đứng vào nhóm 20 quốc gia hàng đầu thế giới như Nghị quyết số 71 của Bộ Chính trị đã đề ra?
PGS.TS Phạm Quốc Khánh: Muốn nâng chất lượng giáo dục thì không thể chỉ dựa vào việc tăng thời gian học hay tăng áp lực thi cử. SEA-PLM và PISA cho thấy những nền giáo dục tiên tiến đều tập trung vào chất lượng giáo viên, chương trình học linh hoạt và môi trường học tập tích cực; những quốc gia có kết quả tốt đều tập trung vào việc giúp học sinh hiểu, vận dụng và giải quyết vấn đề, chứ không chỉ ghi nhớ.
Đây cũng là tinh thần mà Nghị quyết 71 hướng tới: Xây dựng một hệ thống giáo dục hiện đại, công bằng, hội nhập quốc tế, hướng tới mục tiêu đến năm 2045 Việt Nam nằm trong nhóm các quốc gia có nền giáo dục phát triển.
Nâng tỷ lệ học sinh đạt mức năng lực cao không thể bằng cách “tăng áp lực học tập”, mà phải thông qua đổi mới phương pháp dạy học, phát triển tư duy, khả năng vận dụng và sáng tạo.
Phóng viên: Ông kỳ vọng điều gì khi chúng ta thực hiện đồng bộ các giải pháp để thực hiện các mục tiêu phát triển bền vững của giáo dục?
PGS.TS Phạm Quốc Khánh: Kỳ vọng lớn nhất là từ những con số cụ thể như 95% học sinh đạt mức tối thiểu ở Toán, 86% ở đọc hiểu, chúng ta không chỉ vui mừng, mà còn nhìn rõ những việc cần làm tiếp theo.
Quan trọng nhất là mọi học sinh, dù ở thành thị hay vùng khó khăn, đều có cơ hội học tập công bằng và phát triển toàn diện, phát triển đầy đủ tiềm năng của mình. Khi làm được điều đó, giáo dục mới thực sự bền vững.
Khi các chính sách được xây dựng dựa trên dữ liệu tin cậy, khi công bằng được đặt ngang hàng với chất lượng, và khi phát triển bền vững trở thành định hướng xuyên suốt, giáo dục sẽ thực sự trở thành động lực cho phát triển con người và đất nước.
Phóng viên: Trân trọng cảm ơn ông!
