Thạc sỹ luật học Nguyễn Đức Ngọc, Đại học Luật Hà Nội trao đổi về nhiệm vụ kiểm tra giám sát, hỗ trợ xử lý tổ chức tín dụng yếu kém của Bảo hiểm Tiền gửi Việt Nam:
Chính sách bảo hiểm tiền gửi (BHTG) tại Việt Nam được bắt đầu triển khai bởi Nghị định 89/1999/NĐ-CP năm 1999 của Chính phủ, tiếp đến là Quyết định số 218/1999/QĐ-TTg ngày 9/11/1999 của Thủ tướng Chính phủ về việc thành lập Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam (BHTGVN).
Sau hơn 25 năm đi vào hoạt động, hiện nay, với tổng nguồn vốn đạt hơn 135.000 tỷ đồng và quỹ dự phòng nghiệp vụ hơn 128.000 tỷ đồng, Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam đang bảo vệ cho trên 123 triệu lượt người gửi tiền tại 1.277 tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi.
Trong hệ thống tài chính - ngân hàng, bảo hiểm tiền gửi Việt Nam được biết đến như một cơ chế bảo vệ người gửi tiền, góp phần duy trì sự ổn định của hệ thống các tổ chức tín dụng. Với vai trò nêu trên, Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam thực hiện nhiều nghiệp vụ quan trọng, bao gồm: Cấp và thu hồi Chứng nhận tham gia BHTG; Thu phí BHTG; Đầu tư nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi; Thực hiện kiểm tra, giám sát đối với các tổ chức tham gia BHTG; Tham gia xử lý các tổ chức tín dụng (TCTD) yếu kém; Chi trả tiền bảo hiểm cho người gửi tiền khi phát sinh nghĩa vụ chi trả; Tuyên truyền, phổ biến chính sách pháp luật về BHTG.
Thạc sỹ luật học Nguyễn Đức Ngọc, giảng viên Khoa Pháp luật Kinh tế - Trường Đại học Luật Hà Nội cho biết, theo Khoản 9, Điều 13 của Luật Bảo hiểm tiền gửi thì BHTGVN thực hiện kiểm tra việc chấp hành các quy định của pháp luật về BHTG, kiến nghị Ngân hàng Nhà nước (NHNN) xử lý các hành vi vi phạm pháp luật về BHTG. Theo đó, BHTGVN thực hiện kiểm tra định kỳ hoặc khi có yêu cầu của NHNN hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác. Nội dung kiểm tra bao gồm: Việc thực hiện quy định về đề nghị cấp, cấp lại; niêm yết Chứng nhận tham gia BHTG; tính và nộp phí BHTG; nhận tiền gửi được bảo hiểm và việc cung cấp thông tin về tiền gửi được bảo hiểm, các thông tin và báo cáo khác theo yêu cầu của BHTGVN.
Bên cạnh công tác kiểm tra, BHTGVN giám sát 100% các tổ chức tham gia BHTG định kỳ tháng, quý, năm; thông qua quá trình theo dõi, phân tích, đánh giá việc thực hiện quy định về BHTG, tình hình hoạt động và mức độ rủi ro của tổ chức tham gia BHTG dựa trên nguồn thông tin của tổ chức tham gia BHTG, NHNN và các nguồn thông tin khác, từ đó phát hiện và kiến nghị NHNN xử lý kịp thời những vi phạm quy định về BHTG và những rủi ro gây mất an toàn trong hệ thống các TCTD.

BHTGVN đồng hành cùng tổ chức tham gia BHTG từ thời điểm được cấp giấy chứng nhận tham gia BHTG, xuyên suốt quá trình hoạt động thông qua kiểm tra, giám sát và cả khi TCTD rơi vào tình trạng yếu kém, được kiểm soát đặc biệt. Nếu các biện pháp hỗ trợ, can thiệp không còn hiệu quả, BHTGVN sẽ thực hiện nghiệp vụ chi trả bảo hiểm - cơ chế phản ứng cuối cùng nhằm bảo vệ trực tiếp quyền lợi người gửi tiền. Thạc sĩ Nguyễn Đức Ngọc cho biết, theo Điều 23 Luật BHTG, hoạt động này phải được hoàn thành trong thời hạn 60 ngày kể từ thời điểm phát sinh nghĩa vụ chi trả. Đây là một trong những giải pháp quan trọng mà Nhà nước thiết lập nhằm ổn định hệ thống tài chính, giảm thiểu rủi ro cho người gửi tiền và củng cố niềm tin vào hệ thống ngân hàng.
Như vậy, mạch nghiệp vụ của BHTGVN như một chuỗi liên kết chặt chẽ: kiểm tra, giám sát là bước chủ động phòng ngừa rủi ro từ sớm; hỗ trợ xử lý TCTD yếu kém là giai đoạn can thiệp khi rủi ro bắt đầu phát sinh; còn chi trả bảo hiểm chính là hành động quyết liệt cuối cùng cùng nhằm bảo vệ người gửi tiền khi TCTD lâm vào tình trạng mất khả năng chi trả hoặc phá sản. Ba bước này tạo nên hệ thống nghiệp vụ thống nhất, cùng hướng đến mục tiêu cốt lõi là bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người gửi tiền, góp phần duy trì sự ổn định của hệ thống các TCTD, bảo đảm sự phát triển an toàn, lành mạnh của hoạt động ngân hàng./.