Luật sư Nguyễn Đức Hùng, Giám đốc Cty Luật Thiện Duyên tư vấn về việc tự ý chuyển nhượng tài sản chung của vợ chồng:
Theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình 2014, tài sản chung của vợ chồng thuộc sở hữu chung hợp nhất, được dùng để bảo đảm nhu cầu của gia đình, thực hiện nghĩa vụ chung của vợ chồng. Trong trường hợp không có căn cứ để chứng minh tài sản mà vợ, chồng đang có tranh chấp là tài sản riêng của mỗi bên thì tài sản đó được coi là tài sản chung.
Tài sản chung của vợ chồng gồm những tài sản sau đây:
- Tài sản do vợ, chồng tạo ra trong thời kỳ hôn nhân;
- Thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh trong thời kỳ hôn nhân;
- Hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng trong thời kỳ hôn nhân, trừ trường hợp phần tài sản được chia, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng của mỗi bên sau khi chia tài sản chung;
- Thu nhập hợp pháp khác trong thời kỳ hôn nhân, gồm: Khoản tiền thưởng, tiền trúng thưởng xổ số, tiền trợ cấp, trừ các khoản trợ cấp, ưu đãi mà vợ, chồng được nhận theo quy định của pháp luật về ưu đãi người có công với cách mạng; quyền tài sản khác gắn liền với nhân thân của vợ, chồng thì là tài sản riêng của vợ, chồng (quy định tại Khoản 3 Điều 11 Nghị định số 126/2014/NĐ-CP của Chính phủ).
- Tài sản mà vợ, chồng được xác lập quyền sở hữu theo quy định của Bộ luật Dân sự đối với vật vô chủ, vật bị chôn giấu, bị chìm đắm, vật bị đánh rơi, bị bỏ quên, gia súc, gia cầm bị thất lạc, vật nuôi dưới nước; Thu nhập hợp pháp khác theo quy định của pháp luật.
- Tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho chung;
- Tài sản khác mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung;
- Quyền sử dụng đất mà vợ, chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng, trừ trường hợp vợ hoặc chồng được thừa kế riêng, được tặng cho riêng hoặc có được thông qua giao dịch bằng tài sản riêng.
Theo luật sư Nguyễn Đức Hùng, Giám đốc Cty Luật Thiện Duyên - Đoàn Luật sư thành phố Hà Nội, việc chuyển nhượng tài sản chung là nhà đất (bất động sản), hoặc động sản phải đăng ký quyền sở hữu (xe máy, ô tô.v.v..) đều phải được sự thỏa thuận, đồng ý bằng văn bản của cả hai vợ chồng, trừ trường hợp vợ hoặc chồng là người đại diện hợp pháp (theo ủy quyền hoặc theo quy dịnh của pháp luật) cho người còn lại thì mới có quyền tự mình định đoạt, chuyển nhượng các tài sản chung này cho người khác./.
